Trình tự giải quyết tranh chấp liên quan đến đường ống thoát nước thải sinh hoạt qua nhà liền kề Khi phát sinh tranh chấp thì luôn có những câu hỏi liên quan như ai giải quyết tranh chấp này, giải quyết ở đâu. Đối với các tranh chấp xuất phát từ cuộc sống thường ngày như trường hợp này thì hòa giải là phương pháp được ưu tiên và khuyến khích.
Thống nhất hoàn thành giải phóng mặt bằng đường Vành đai 4 - Vùng Thủ đô vào tháng 12-2023 Đóng Tự trình chiếu Dừng trình chiếu. Tin liên quan Xây dựng kế Xã hội Thúc đẩy quản lý hoạt động thoát nước nội đô
Đường lối đổi mới do Đại hội VI (12.1986) của Đảng Cộng sản Việt Nam đề ra, được Đại hội VII, VIII, IX, X, XI, XII và các hội nghị Ban Chấp hành Trung ương của Đảng bổ sung, cụ thể hóa và phát triển. Đường lối đó đã nhanh chóng đi vào cuộc sống, được thực
Quán karaoke có gần 30 phòng hát, diện tích sàn xây dựng hơn 1.500 m2, khu vực cháy khoảng 400 m2, nằm ở tầng 2 và 3. Lửa bén vào đệm mút cách âm, gỗ nội thất của tòa nhà nên bùng cháy dữ dội, bịt kín lối thoát hiểm, nhiều người phải ra ngoài ban công.
Đường giải thoát - Phần 1 **** Đạo Phật giáo là nơi cứu khổ, Độ chúng sanh không bỏ một ai; Lòng thương yêu khắp nhơn loài, Không hề muốn thấy một ai khổ trần. Đường chơn chánh trên hơn tất cả, Nẻo nhiệm mầu chẳng có chi bì; Muốn người rõ tánh từ bi, 8.
Nhật Bản Triệt Phá Đường Dây Làm Giả Thẻ Cư Trú Cho Người Nước Ngoài. Ngày 30/9, cảnh sát Nhật Bản đã bắt giữ 6 đối tượng bị tình nghi làm giả thẻ cư trú cho người nước ngoài, đồng thời thu giữ hơn 200 thẻ giả và khoảng 3.000 phôi thẻ cùng các công cụ được
Đây chính là đường găng quan trọng của cụm Dự án. Bài 2: Gỡ nút thắt giải phóng mặt bằng. Mai Phương (TTXVN) Gấp rút đẩy nhanh tiến độ cụm công trình giải tỏa công suất Nhà máy nhiệt điện BOT Vân Phong 1. Ngày 9/6, tại Hà Nội, ông Đặng Hoàng An, Thứ trưởng Bộ Công
1. Đường ống tắc nghẽn do rác thải Đây là nguyên nhân phổ biến dẫn tới tình trạng đường ống bị tắc nghẽn. Bạn có thể thấy được đều này nếu bạn để ý quan sát được số rác thải được đem lên tại
Vay Tiền Cấp Tốc Online Cmnd. Phần 2 PHẦN TÌM HIỂU Phần Tìm Hiểu về Phẩm 1 Nhân Duyên 001. Ý chánh của Phẩm 1 Nhân duyên. Muốn cởi bỏ mọi khổ đau ràng buộc, dứt sự sợ hãi về sống chết, và đến được cõi Niết-bàn an lạc, thì phải thấu hiểu Tam tạng Kinh điển dạy rõ con đường giải thoát. Con đường ấy trải qua ba chặng Giới, Định, Huệ. 002. Tóm tắt Phẩm 1 Nhân duyên. Phẩm Nhân duyên mở đầu bằng bài Kệ khen ngợi công đức của Đức Phật đã giác ngộ được pháp Giải Thoát cao cả nên xứng danh là đấng Thế tôn = được cả thế gian tôn trọng. Sau khi cắt nghiã bài Kệ, vạch rõ thế nào là Giới, Định, Huệ, Phẩm 1 nầy gồm có các đoạn chánh sau đây 1. Giải thoát đạo gồm có năm phần 11. Phục giải thoát, 12. Bỉ phần giải thoát, 13. Đoạn giải thoát, 14. Khinh an giải thoát, 15. Xuất ly giải thoát. 2. Mục đích việc giảng Giải thoát đạo là chỉ rõ con đường giải thoát cho ai còn chưa hiểu hay đã hiểu lầm, tựa như chỉ đường đi nước bước cho người đi xa chưa rành xứ lạ. 3. Theo Phục giải thoát, thì cần phải học ba môn học 31. Giới học và Tăng thượng Giới học, 32. Tâm học và Tăng thượng Tâm học, 33. Huệ học và Tăng thượng Huệ học. 4. Ích lợi thứ nhứt của việc tuân theo Phục giải thoát là thành tựu được ba ấm Giới, Định, Huệ. 41. Giới ấm gồm có chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng; 42. Định ấm gồm cóchánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định; 43. Huệ ấm gồm có chánh kiến, chánh tư duy. 5. Ích lợi thứ nhì là thành tựu được ba sự thanh tịnh 1 giới thanh tịnh, 2 tâm thanh tịnh, và 3 tri kiến thanh tịnh. 6. Ích lợi thứ ba là được ba điều thiện = ba điều lành 61. sơ thiện là Giới, điều lành ở bước đầu, 62. trung thiện là Định, điều lành ở giai đoạn giữa 63. hậu thiện là Huệ, điều lành ở giai đoạn cuối. 7. Ích lợi thứ tư là được ba niềm vui 71. vô quá lạc, vui vì chẳng hề phạm tội lỗi, 72. tịch diệt lạc, vui vì được yên tịnh, an ổn, 73. chánh giác lạc, vui vì hiểu rõ Chánh pháp. 8. Ích lợi thứ năm là theo đúng con đường Trung đạo, xa lìa được nhị biên = hai bên, tức là một bên theo sự ham muốn vui sướng [tham lợi dưỡng], còn một bên là ép xác cực khổ [ tu khổ hạnh quá mức ]. 9. Theo Phục giải thoát, tu học Giới Định Huệ, sẽ đắc được các quả 91. Tu-đà-huờn và Tư-đà-hàm, nếu tu nhiều Giới mà ít Định và Huệ, 92. A-na-hàm, nếu tu nhiều Giới và Định, mà Huệ ít hơn, 93. A-la-hán, nếu tu cả ba đồng đều và đầy đủ. 003. Giải nghiã các chữ khó trong Phẩm 1 Giải thoát đạo Luận Giải = cởi mở; thoát = tránh khỏi; đạo = con đường, đường lối, cách thức; Luận = bộ Luận, tức là quyển sách do bực A-la-hán, Bồ-tát, viết để giảng rõ thêm về Chánh pháp nói trong Kinh. Bộ Luận nầy do Ngài A-la-hán Ưu ba đế sa Upatissa, trùng tên với Ngài Xá-lợi-phất, Sariputta, viết có lẽ vào đầu thế kỷ thứ nhứt bằng tiếng Pàli, được dịch sang chữ Hán có lẽ vào thế kỷ thứ sáu, do Tam tạng pháp sư Tăng già bà la Tipitaka Sanghapàla, ở đất Phù Nam, nước Lương [xin dè dặt về thời điểm và điạ danh]. Nguyên tác bằng tiếng Pàli đã bị mất hẳn, nên các tu sĩ Phật giáo ở Tích lan đem bản chữ Hán trong Đại tạng, dịch ngược trở lại tiếng Pàli, nhan đề Vimutti Magga. Bản dịch Anh văn được Buddhist Publication Society ở Sri Lanka ấn hành năm 1961 dưới nhan đề là The Path of Freedom. Bản dịch của Thiện Nhựt căn cứ trên bản Hán văn trong bộ Càn Long Đại Tạng Kinh, quyển số 103, từ trang 620 đến trang 755 và quyển số 104, tiếp theo, từ trang 001 đến hết trang 048. Nhân duyên Nhân = nguyên nhân chánh, cớ chánh; duyên = nguyên nhân phụ, cớ phụ, còn gọi là điều kiện, nếu chẳng có đủ thì chẳng có kết quả sanh ra. Ở Phẩm nầy, chữ Nhân duyên có nghiã là các lý do vì đâu mà tác giả đã viết ra bộ Luận nầy. Thế tôn Thế = thế gian; tôn = trọng; đấng được cả thế gian tôn kính. Ở đây, chữ Thế tôn dành cho Đức Phật Thích-ca. Lúc Đức Phật còn sống, Ngài tự xưng là Như Lai, còn các đệ tử gọi Ngài là Thế tôn. Ứng cúng Ứng = xứng đáng, đáng nhận; cúng = đem lễ vật dâng hiến, cúng. Các bực Thánh xứng đáng nhận sự cúng dường của người khác, nên gọi là bực ứng cúng. Chánh biến tri Chánh = chơn chánh, đứng đắn; biến = cùng khắp, chẳng sót; tri = biết. Chánh biến tri là sự hiểu biết chơn chánh tất cả mọi sự vật, chẳng sót sự vật nào. Cùng với Ứng cúng, chữ Chánh biến tri là một danh hiệu của Đức Phật. Phẩm 8 Hành môn, Chi 3 về Niệm Phật sẽ giải thích rõ về Mười Danh hiệu của Phật. Vô thượng Vô = chẳng có; thượng = ở trên; Vô thượng là cao hết sức cao, chẳng còn gì cao hơn nữa. Hữu xứng Hữu = có; xứng = hay là xưng, xưng tán, khen ngợi. Ở đây có nghiã là xứng đáng được tôn xưng. Tâm trí ưu thắng ưu thắng = tốt hơn, cao hơn; có tâm trí vượt lên trên hạng người thường. Niết-bàn phiên âm chữ Pàli Nibbàna, nghiã gốc là ra khỏi rừng u tối, nghiã giáo lý là đã trừ diệt xong các phiền não, chứng được vô sanh = chẳng còn phải tái sanh lại nữa. Tiếng Phạn là Nirvana. Có hai cõi Niết-bàn; khi còn sống gọi là Hữu dư Niết-bàn; đến khi lià đời thì vào cõi tịch diệt của Vô dư Niết-bàn. Tam tạng Kinh điển Luật tạng, Kinh tạng và Luận tạng Tam = ba; tạng = cái giỏ đựng sách; còn có nghiã là kho tàng chứa Kinh sách; Kinh = nói gọn là, lời Đức Phật giảng về Chánh pháp; điển = sách làm chuẩn, ghi phép tắc. Tam tạng Kinh điển là kho tàng sách vở giáo lý, gồm có ba tạng là Luật tạng, nói về Giới luật; Kinh tạng, gồm các bộ Kinh dài ngắn; và Luận tạng, các bộ Luận giải thêm ý nghiã trong Kinh. Uy nghi oai nghi Chữ nầy được dùng theo như một danh từ, hoặc theo như một tĩnh từ. Danh từ uy nghi chỉ cho bốn tư thế đi, đứng, nằm, ngồi; còn gọi là bốn oai nghi. Tĩnh từ uy nghi có nghiã là đàng hoàng trong tư cách, trang nghiêm. Ở đây, chữ uy nghi được dùng theo cả hai nghiã. Loạn động xao động, chẳng yên. Nói về tâm lăng xăng, chạy tới chạy lui. Trái nghiã với nhứt tâm bất loạn. Vô lậu Vô = không; lậu = rỉ chảy. Chữ nầy được dùng theo nghiã bóng, chỉ các phiền não bên trong bộc lộ ra, như chất máu mủ rỉ chảy ngoài da. Vô lậu có nghiã là dứt sạch các phiền não. Trái nghiã với chữ hữu lậu, còn phiền não. Thử pháp Thử = đó, kia; Pháp = pháp tu. Chữ Pháp có ba nghiã 1 nghiã thường, pháp là pháp luật, luật lệ mà mọi người phải tuân theo; 2 nghiã thứ nhứt trong Phật học là những pháp tu, lời dạy để tu hành. Thí dụ Chánh pháp, Đạo pháp. 3 Nghiã thứ hai trong Phật học là tất cả sự vật mà ta có thể đặt tên để gọi. Thí dụ như căn nhà, ngọn núi, con người, thú vật, đều được Phật học gọi là những pháp. Ở đây, hai chữ thử pháp, nghiã là, pháp đó, tức là cái pháp tu được nói đến. Trong bài Kệ, chữ Thử pháp, pháp đó, nói đến Tứ Thánh pháp, tức là bốn Chơn lý Nhiệm mầu, là Tứ Diệu Đế. Tứ Thánh pháp Tứ = bốn; Thánh = bực Thánh, bực tu hành đã đắc Đạo; pháp = pháp tu. Bốn pháp đó còn gọi là Tứ Diệu Đế, gồm có 1 Khổ đế = Chơn lý về sự khổ; 2 Tập đế = Chơn lý về nguồn gốc gây ra sự khổ; 3 Diệt đế = Chơn lý về sự tận diệt được sự khổ; 4 Đạo đế = Chơn lý về con đường tu tập để tiêu diệt hết sự khổ. Tứ Diệu Đế được Đức Phật Thích-ca giảng rõ trong bản Kinh đầu tiên của Ngài là Kinh Chuyển Pháp luân = Kinh chuyển bánh xe Pháp. Cồ-đàm phiên âm chữ Gotama, họ của Đức Phật Thích-ca. Công đức thù thắng được sự ích lợi to lớn nhứt. Phiền não các điều làm cho mình phải lo lắng, đau khổ. Có ba phiền não chánh tham, sân giận và si ngu tối, thường được gọi là tam độc, tức là ba món độc hại cần trừ bỏ. Phục giải thoát Phục = điều phục, bắt phải theo lịnh mình, tức là dẹp cho yên ổn. Giải thoát = cởi mở ra cho được tự do. Phục giải thoát là giai đoạn đầu của Giải thoát đạo, con đường đưa đến tự tại, tự mình làm chủ lấy mình, chẳng bị ràng buộc gì nữa. Phục, đây là điều phục các triền cái. Triền cái Triền = vây quấn xung quanh; cái = che úp lại. Triền cái, theo nghiã Phật học, là năm món che úp 1 tham dục = ham muốn, 2 sân khuể = giận hờn, 3 giải đãi = lười nhác, 4 trạo hay điệu, vụt chạc, xao động và hối = hối tiếc, 5 nghi. Năm món nầy thật ra có tới bảy món làm chướng ngại cho việc tu đắc Sơ thiền = thiền thứ nhứt. Bỉ phần giải thoát Bỉ = kia, đó; phần = một phần trong toàn thể; Bỉ phần giải thoát là đắc được một phần giải thoát, phần đó là Định, tâm bớt xao động, biết dừng lại. Khinh an giải thoát Khinh = nhẹ nhàng; An = yên ổn; Khinh an là tình trạng của thân và tâm cảm thấy nhẹ nhàng và an ổn. Trong bản dịch chữ Hán, ghi là ỷ giải thoát. Tri kiến Tri = biết; kiến = thấy; Tri kiến là các điều mình thấy và biết rõ. Đoạn giải thoát Đoạn = cắt đứt thành từng đoạn; đoạn trừ. Đây là giai đoạn dẹp bỏ các kết sử, để được tự do. Kết sử còn gọi là kiết sử. Kết = tụ tập, kết hợp lại; Sử = sai khiến, sai sử. Kết sử là mười phiền não có khả năng sai khiến mình phải hành động hay nói năng theo hướng các phiền não đó; thí dụ kết sử giận sai khiến mình phải to tiếng, quát tháo, đánh đập, phá hủy. Có mười kết sử 1 tham 2 sân = giận, 3 si = si mê, 4 mạn = kiêu căng, phách lối, 5 nghi, 6 tà kiến = ý nghĩ sái quấy, 7 giới cấm thủ = các giới cấm và nghi thức cúng tế của ngoại đạo, đầy vẻ mê tín, 8 tật = ganh ghét, đố kỵ, 9 khan = keo kiệt và 10 hữu kết = tham muốn được sống mãi; hữu = cuộc sống hiện nay. Xuất thế gian Xuất = ra khỏi; Thế gian = cõi sống ở trần gian nầy. Xuất thế có nghiã là tu hành để vượt qua được cuộc sống ở thế gian. Trái nghiã với chữ tại thế, thế tục. Quả vị Tu hành theo pháp thành công là chứng được Đạo tiếng Pàli là Magga. Tu hành được viên mãn chứng đắc được bực Thánh, gọi là đắc quả vị tiếng Pàli là Phala. Hai chữ Đạo quả có nghiã là, Đạo là nguyên nhân khởi việc tu, Quả là kết quả việc tu đã xong. Vị là ngôi vị, cấp bực. Trần lao Trần = bụi bặm; lao = khổ nhọc; Trần lao chỉ các chỗ khổ sở, nhọc nhằn, dơ bẩn trong cuộc đời ở thế gian. Thoái chuyển Thoái = thối = lùi trở lại; chuyển = di động, chuyển động. Thoái chuyển là lùi sụt. Bất chánh Bất = chẳng; Chánh = đứng đắn, chơn chánh, ngay thẳng. Trái nghiã với chơn chánh. Thiền tiếng Pàli là Jhàna phương pháp tu hành để tâm được Định. Có bốn cấp Thiền 1 Sơ thiền, 2 Nhị thiền, 3 Tam thiền, và 4 Tứ thiền. Có nơi còn thêm Ngũ thiền nữa. Ấm = Uẩn = sự nhóm họp, kết tụ lại nhiều thứ. Vì tụ lại lắm thứ nên có sự lẫn lộn che mờ. Thường nói Năm Ấm hay Ngũ uẩn, để chỉ thân tâm nầy gồm có năm phần 1 sắc ấm phần vật chất, 2 thọ ấm các cảm giác, 3 tưởng ấm các tri giác và tư tưởng, 4 hành ấm các hành động của thân và của tâm và 5 thức ấm các sự hiểu biết. Ở đây, nói ba ấm giới ấm, định ấm và huệ ấm, chữ ấm được dùng với nghiã là tụ lại, nhóm họp. Thành tựu thành công, làm thành được. Chánh ngữ lời nói chơn chánh. Chánh nghiệp Nghiệp = chữ Pàli là Kamma, chữ Phạn là Karma, chỉ tất cả các hành động và lời nói đã làm hay nói, trong thời gian đã qua, tạo thành nghiệp, khiến cho mình nay được sung sướng hay khổ cực. Nghiệp có sức mạnh dẫn dắt chúng sanh đi tái sanh trong vòng Luân hồi, sanh ra lớn lên rồi chết và phải sanh trở lại nữa, lẩn quẩn mãi chẳng dứt. Ở đây, chữ Chánh nghiệp có nghiã là nghiệp chơn chánh, sẽ dắt ta sanh theo đường lành. Chánh mạng có nghề nghiệp chơn chánh để nuôi mạng sống. Chánh tinh tấn sự cố gắng đúng đắn, chơn chánh. Chánh niệm Chánh = chơn chánh, đúng đắn; Niệm = một ý tưởng khởi lên ngay lúc nầy trong tâm; Chánh niệm là ý tưởng khởi lên trong tâm, ngay trong lúc mình đang làm gì thì biết mình đang làm việc ấy. Người có chánh niệm đang tụng Kinh, biết mình đang đọc tới câu nào, chữ nào; trái với người thất niệm, miệng đọc Kinh mà tâm đang nghĩ đến việc khác. Chánh định Định = dừng lại, trụ lại, chuyên vào một việc đang suy nghĩ. Chánh định là tình trạng tâm an ổn của người đang dừng lại sự suy nghĩ. Chánh kiến ý kiến chơn chánh, tri kiến= hiểu biết chơn chánh. Trái nghiã với tà kiến = ý tưởng sái quấy, với vọng tưởng = ý nghĩ mơ vọng, chẳng đúng đắn, chẳng hợp với lúc đang suy nghĩ, lạc ra ngoài đề. Chánh tư duy Tư duy = suy nghĩ; Chánh tư duy là có sự suy nghĩ đứng đắn, chơn chánh, nghiã là theo đúng Chánh pháp. Giới học học về Giới luật tu hành theo đạo Phật. Có 10 giới của Sa-di = người mới vào chùa tu, 250 giới của Tỳ-kheo nam tu sĩ thọ Cụ túc giới [ = Giới đầy đủ ], chánh thức gia nhập Tăng đoàn, và 348 giới của Tỳ-kheo ni nữ tu sĩ thọ Cụ túc giới. Cư sĩ tu tại nhà có 5 giới; Cư sĩ thọ Bồ-tát giới có 40 giới. Tăng thượng Tăng = tăng thêm; thượng = cao hơn. Tăng thượng giới là các giới luật cao hơn dành cho bực Thánh. Giới tướng Giới = điều răn cấm trong Đạo Phật; Tướng = hình tướng, hình thức. Thí dụ giới sát sanh có giới tướng là chẳng cầm dao giết hại chúng sanh. Dục giới Chữ Giới nầy khác nghiã với chữ Giới là điều răn cấm. Giới trong chữ Dục giới, có nghiã là cõi, lãnh vực; Dục là ham muốn. Cõi dục giới là cõi chúng ta đang sống, còn nhiều ham muốn. Có ba cõi, hay là tam giới dục giới, sắc giới = cõi còn hình sắc, nhưng hình sắc tế nhị hơn ở cõi dục giới, và vô sắc giới = cõi chẳng còn hình sắc, chỉ còn tư tưởng mà thôi Sắc giới Cõi cao hơn cõi Dục giới, chẳng còn ham muốn, có hình sắc nhưng tế nhị hơn cõi Dục giới. Vô sắc giới Cõi cao nhứt trong ba cõi, chẳng có hình sắc, chỉ còn tư tưởng. Tương tự trí Tương tự = giống y với, chẳng khác. Tương tự trí là trí đã thông hiểu rõ ba mươi bảy phẩm trợ đạo Bồ-đề Các Phẩm sau của bộ Luận sẽ chỉ rõ 37 phẩm trợ đạo. Đạo trí Đạo = ở đây chữ Đạo có nghiã là con đường tu hành để đắc được bốn quả hàng Thanh văn tức là Tu-đà-huờn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm và A-la-hán. Chữ Đạo nầy được dùng trong chữ đạo quả đạo = magga, quả = phala. Như thế, Đạo trí là trí biết rõ và thực hành theo đúng đường lối tu hành hàng Thanh văn Pàli Sàvaka, tu sĩ nghe Kinh Phật dạy để tu. Độn căn Độn = trì độn, chậm lụt; Căn = gốc, tức là vốn liếng hiểu biết. Người độn căn là người có căn cơ chậm lụt, thông minh kém cỏi. Lợi căn Lợi = sắc bén. Lợi căn nói đến người thông minh nhiều, hiểu nhanh các điều được chỉ dạy. Khả học Khả = có thể, nên phải. Điều khả học là điều phải nên học hỏi thêm. Như thị học Như thị = như thế, nghiã là, như thế nào thì thấy và hiểu đúng như thế ấy, theo đúng Chơn lý. Như thị học là cái học về Chơn lý. Hữu học và Vô học Đây là nói về hai hạng người. Người hữu học là người còn nhiều điều phải học thêm; ý muốn nói chưa biết cách diệt trừ các phiền não. Còn người vô học, chẳng phải là người chẳng học gì ráo, vì đó là người thất học, chớ chẳng phải là người vô học. Vô học là học xong và thực hành đầy đủ việc diệt trừ các phiền não, nên chẳng điều gì phải học thêm nữa. Như thế, hữu học còn thấp hơn vô học. Thanh tịnhThanh = trong, chẳng đục; Tịnh = sạch sẽ. Giới thanh tịnh là giữ gìn giới luật chặt chẽ chẳng sơ hở, chẳng hề phạm giới. Tâm thanh tịnh là lòng trong sạch, chẳng vướng bận ý nghĩ xấu ác, chẳng có vọng tưởng. Huệ thanh tịnh là trí sáng suốt chẳng bị các tà kiến che mờ, khiến cho Trí huệ Bát-nhã chiếu sáng lên, vẹt được sự vô minh = sự ngu tối. Tẩy trừ gột rửa cho sạch, dẹp bỏ chỗ dơ xấu. Cấu nhiễm Cấu = cặn cáu dơ bẩn; Nhiễm = dính dơ Triền cấu Xin xem lại chữ Triền cái. Vô tri cấu Vô tri = chẳng biết; Cấu là cặn bã dơ dáy. Vô tri cấu tức là sự ngu dốt, thiếu sự hiểu biết. Ác nghiệp Nghiệp ác là vì các hành động xấu ác đã qua khiến phải sanh vào ba đường dữ = tam ác đạo điạ ngục, ngạ qủi [ = qủi đói] và súc sanh [ = thú vật]. Ba điều lành Nguyên văn chữ Hán là tam chủng Thiện, ba loại thiện. Ở đây có nghiã là việc tu tập theo Giải thoát đạo qua ba giai đoạn tạo thành ba điều lành; đúng ra đó là một điều lành trải qua ba giai đoạn. Giai đoạn đầu được gọi là Sơ thiện, khi giữ Giới được thanh tịnh; giai đoạn giữa được gọi là Trung thiện, khi tâm đắc được Định, ý nghĩ dừng lại, chẳng còn lăng xăng nữa và nhờ đó đến giai đoạn chót, gọi là Hậu thiện, Trí Huệ chiếu sáng lên dẹp xong các tà kiến, khiến cho tri kiến được thanh tịnh, lià xa các ham muốn mà được giải thoát. Chữ Thiện, trong Hán văn, còn có nghiã là khéo léo, cho nên Kinh sách thường nói, lời giảng pháp của Đức Phật đều được sơ thiện, trung thiện và hậu thiện, có nghiã là Ngài khéo nói ở đoạn đầu, khéo nói ở đoạn giữa, và cũng khéo nói ở đoạn cuối. Vô quá lạc Vô = chẳng có; Quá = lỗi lầm, quá thất; Lạc = vui. Vô quá lạc là niềm vui trong lòng khi nhận thấy và biết mình chẳng có lỗi lầm chi cả. Tịch diệt lạcTịch = yên lặng, lặng lẽ; Diệt = tiêu mất. Tịch diệt lạc là niềm vui thấy thân tâm được an ổn, nhẹ nhàng, như đang trong cõi tịch diệt = yên lặng của Niết-bàn. Chánh giác lạc Chánh giác = sự giác ngộ chơn chánh, tức là hiểu và áp dụng đúng theo Chánh pháp và chứng đắc được. Chánh giác lạc là niệm vui được giác ngộ, hiểu theo nghiã biết rõ cả Chơn lý. Trung Đạo Trung = ở giữa. Đạo = con đường, đường lối. Trung Đạo là con đường tu tập mà Đức Phật đã vạch ra trong Bát Chánh Đạo, theo đó người tu hành tránh xa hai cực đoan 1 tham lợi dưỡng, ham hưởng thú vui vật chất, và 2 khổ hạnh, tu hành ép xác cực khổ, tưởng rằng nhờ đó mà mau đắc quả. Hai cực đoan, lợi dưỡng và khổ hạnh, còn được gọi là nhị biên. [ Đừng lầm với Đạo Trung dung của Nho giáo]. Nhị biên Nhị = hai; Biên = biên giới; Nhị biên thường được dịch là hai bên; còn ở giữa chính là con đường Trung Đạo, tránh được hai bên. Nhưng chữ nhị biên, hai bên còn có nghiã khác, chỉ cho hai tà kiến trái ngược hẳn nhau thường kiến và đoạn kiến. Chống lại vô thường kiến tư tưởng Phật học cho rằng muôn sự đều biến đổi để đi đến hoại vong, thường kiến là ý kiến tin rằng chẳng có sự thay đổi, hễ đã là người rồi thì chết đi, lại sanh ra làm người nữa. Còn đoạn kiến thì cho rằng chết đi là hết, chẳng có Luân hồi sanh tử chi cả. Cả hai tà kiến đoạn kiến và thường kiến khi tu theo đạo Tu-đà-huờn thì dẹp được hết, cùng với thân kiến = chấp thân nầy là Ta. 004. Suy gẫm về Phẩm 1 Nhân duyên của bộ Luận Giải thoát đạo nầy. Sau khi đọc kỹ bản dịch Việt văn về Phẩm 1, tìm hiểu nghiã chữ khó và sắp xếp ý tưởng trình bày trong Phẩm thành một dàn bài chi tiết, ta bắt đầu suy gẫm về Phẩm 1 nầy. Suy gẫm về ý nghiã của một bài văn là tìm hiểu hứng thú của bài văn đó. Suy gẫm về ý nghiã của một bản Kinh, hay một bản Luận, là tìm thấy, qua sự suy nghĩ của chính mình, nghiã lý đã được bản Kinh, Luận nói đến và rút ra bài học cho chính bản thân mình, để ứng dụng tu tập. Như thế, việc đọc Kinh, Luận chẳng giống với việc đọc các bài văn thơ, là ở chỗ tìm thấy ra ích lợi thiết thực trong việc tu tập. Biết rút ra được một vài điều có ích cho việc tu tập, đó là đang nếm pháp vị của bản Kinh hay bản Luận. Nhắc lại lời Đức Phật có nói, như nước biển chỉ có một mùi vị là mặn, Chánh pháp cũng chỉ có một vị, đó là vị giải thoát. Như thế, việc đọc tụng một bản Kinh chưa đủ, việc học thuộc lòng một bản Kinh vẫn chưa đủ, việc tìm hiểu ý nghiã của bản Kinh cũng vẫn chưa đủ, còn phải biết cách tự mình suy gẫm để nếm pháp vị của bản Kinh, Luận đó nữa. Suy gẫm về "Phẩm 1 Nhân duyên" nầy, xin nêu ra các ý nghĩ cá nhơn thô thiển sau đây 1 Toàn thể bộ Luận đều nói đến sự giải thoát; Phẩm 1 đưa ra các lý do tại sao phải tìm đường giải thoát và giải thoát bằng cách nào. Luận văn ghi rõ "... muốn cởi được mọi ràng buộc, muốn thành tựu tâm trí ưu thắng dứt sợ hãi về sanh, già, chết, muốn vui giải thoát đạt tới Niết-bàn ..." ba điểm giải thoát, một gần và hai xa. Gần là cởi mọi ràng buộc; xa là có được tâm trí ưu thắng dứt sợ hãi về sống chết, và đạt tới Niết-bàn. Ngay trong lúc nầy, tưởng chỉ nên chú trọng đến một điểm gần mà thôi, để chấm dứt mọi ràng buộc. Đến khi tu tập có tiến bộ, tự nhiên sẽ thấy hai điểm xa tuy khó mà cũng có thể hi vọng thành tựu được ít nhiều. 2 Thắc mắc thứ nhứt nào ai trói buộc tôi mà gọi là tôi bị ràng buộc? Đáp Sự ràng buộc nằm bên trong mỗi người. Khi giận, thì có hành động, lời nói như thế nào? Phải chăng giận run lên, đỏ mặt tiá tai, miệng quát tháo, tay đập phá. Đó là tâm giận đã sai khiến mình có thái độ, lời nói và hành động thiếu mất bình tỉnh như vậy. Tâm giận đó nằm bên trong lòng mình, được Kinh sách gọi là một kết sử, cái sự ràng buộc sai khiến mình có tư cách thiếu đúng đắn. Thử nhìn vào trong lòng mình, thật thà mà xét đến thái độ của chính mình, thì thấy ra chính mình đang bị ràng buộc bởi mười kết sử. Việc gần cần làm ngay là phải tìm cách, và áp dụng cách đó, để ngăn chặn các mối ràng buộc ấy. Đấy là đang tu tập theo Phục giải thoát được nói trong Luận văn. Phục, có nghiã là điều phục, là chính mình làm chủ lấy tâm mình, khiến cho cơn giận chóng qua đi mà chẳng gây ra tai hại cho kẻ khác và cho cả chính mình nữa Khi giận, thân tâm chẳng vui sướng gì đâu!. 3 Thắc mắc thứ hai Có người sanh ra trên nhung lụa, sống sung sướng cả đời, bị khổ gì đâu mà cần giải thoát? Đáp Bất luận là ai, giàu sang, quyền thế mấy đi nữa, cũng có lúc đau ốm, và chắc chắn rồi sẽ lo sợ khi phải chết. Đã có thân tâm nầy, tất chẳng ai tránh được sự lo lắng về bịnh tật, già yếu và chết chóc. Phương tiện y khoa có thể trị lành bịnh, kéo dài cuộc sống được, nhưng sự lo lắng khi bịnh, lúc già, cảnh chết, chẳng có cách nào làm cho dứt hẳn được. Nhưng Kinh Luận Phật học dạy cách làm cho tâm chẳng quá lo lắng về ba cái khổ đó. Dạy cách nào? Bộ Luận Giải thoát đạo nầy sẽ lần lượt chỉ rõ cách khiến cho tâm trí sẵn sàng đối phó với cái khổ tinh thần đó trên cái đau về thân xác, chẳng chồng thêm lên cái khổ tâm linh. Khi đã học đến làm thế nào để có được tâm trí ưu thắng dứt sợ hãi, sẽ thấy bộ Luận nầy dạy ta cách thực tế nhứt để vượt qua được việc "đau và khổ" đó. 4 Thắc mắc thứ ba đọc qua Phẩm 1, thấy nói đến năm phần giải thoát, sao chỉ thấy giảng rộng về Phục giải thoát thôi, còn các thứ giải thoát khác chẳng thấy nói đến? Đáp Dụng ý của tác giả là nói đến việc gần trước, rồi các Phẩm sau sẽ khai triển thêm về các giai đoạn giải thoát khác. Vả lại, khi đã điều phục được thân tâm nầy, diệt xong các kết sử, các phiền não khác, tự nhiên tâm trí sáng suốt hơn mà nhìn thấy rõ con đường giải thoát ở mức trọn vẹn như thế nào, và cần còn phải làm những gì thêm nữa, sau khi đã tu tập kỹ về Phục giải thoát. 5 Thắc mắc thứ tư Vừa đọc qua mấy trang đầu trong Phẩm 1, tôi bị tràn ngập bởi các danh từ chuyên môn về Phật học, làm sao mà nhớ được chừng ấy chữ, chừng ấy ý, để ứng dụng tu hành? Đáp Các danh từ Phật học đã được giải thích một cách rất tóm tắt trong Phần Tìm hiểu. Nếu đi sâu vào chi tiết các danh từ nầy, chắc sự tràn ngập còn lên cao hơn nữa. Trong buổi đầu, xin tạm nhớ chừng ấy, hay ít hơn cũng được; miễn là mỗi khi thấy còn thắc mắc thì giở ra xem lại. Nhờ xem lại thường mà chẳng cần học thuộc lòng, cũng nhớ đúng được. Một điều quan trọng xin nêu lên trong khi học Kinh sách Phật, xin đừng để các danh từ làm mình rối trí thêm, vấn đề chánh là tìm hiểu được ý chánh nói trong đoạn đang đọc. Ý nghiã mới quan trọng, giúp mình biết cách ứng dụng, xin đừng bắt chước những người thường hay dùng các tiếng dao to búa lớn, nói nhiều tiếng Hán Việt cho ra vẻ ... tu hành! Ngâm nga một bài Kệ mà chẳng hiểu ý nghiã, phải chăng đó là một hình thức để ... khoe khoang mình biết nhiều về Kinh kệ, rằng mình đã tu ... cao! Nếu muốn học thuộc các bài Kệ, xin cứ học thuộc, sẽ được nhiều phước lạc, nhưng xin nhớ giữ lấy ý nghiã để mà tu cho có công đức tu cho chính mình! 005. Thử tóm tắt những điều cần nên hiểu rõ và biết chắc về Phẩm 1 Nhân duyên. 1. Giải thoát là gì? Giải thoát là cởi mở các ràng buộc từ bên trong. 2. Phục giải thoát là điều phục thân tâm nầy, từ từ dẹp bớt các phiền não, các kết sử. 3. Con đường giải thoát là tu hành theo ba môn học Giới, Định và Huệ. Nhờ giữ kỹ Giới thành kỷ luật nghiêm khắc để tuân theo khiến cho thân tâm được an lạc, rồi nhờ siêng tập Định bằng cách ngồi Thiền, tâm trí mới trở nên sáng suốt hơn trước, đó là Huệ. Trí huệ sáng suốt giúp ta giác ngộ được Chánh pháp, để ứng dụng tu hành sớm đạt đến giải thoát. Và xin nói thêm một điều thật quan trọng. Đó là Đạo Phật được tóm gọn trong mấy chữ nầy Giác ngộ và Giải thoát. -ooOoo- ầu trang Mục lục Phần Chánh văn 01 02 03 04 05 06 07 09 10 11 12 Phần tìm hiểu 01 02 03 04 05 06 07 09 10 11 12 Tổng kết
Đường Giải Thoát Blog tạo nhằm ghi lại những thay đổi nội tâm và hoàn cảnh thực của bản thân tác giả từ cậu bé lớn lên, trở thành bác sĩ, bôn ba kiếm tiền, khi ngộ được Phật Pháp thì một lòng tu hành, quyết đoạn trừ các phiền não, cầu vãng sanh Tây Phương Cực Lạc ngay trong đời này. Cũng là một con người như mọi người, bản thân tác giả đầy sự hỷ nộ ái ố, tham sân si, ham đắm nhiều thứ vật chất, chính vì giác ngộ nên đã một lòng cầu đạo tu hành, sửa đổi tánh tình, niệm Phật thành tâm cầu vãng sanh… Blog được chia ra nhiều phần để tiện việc tham khảo sự phân chia chỉ mang tính tương đối Hành Trì Bao gồm lời dạy của Đức Phật, Đức Thầy và hành trì cúng lạy của bản thân mỗi ngày Chánh Đạo Con đường chánh pháp, giúp người quay đầu hướng thiện, bao gồm những lời khuyên, những mẫu chuyện, hay quá trình tu học ngộ được lời dạy của Phật Đạo Và Y Những mẫu chuyện về Y và Đạo. Lời khuyên nhủ những người bệnh quay về nương tựa Chánh Pháp, thoát khỏi đau khổ, phiền muộn… Nhật Ký Dòng cuộc sống, ghi lại những khoảnh khắc để học hỏi và tiến bộ. Niệm Phật Quá trình tu tập niệm phật, sự rèn luyện thân tâm, chiêu cảm của bản thân với Đạo. Cách hóa giải những chướng ngại trong việc niệm Phật. Giấc Mơ Ghi lại những giấc mơ. Tất cả đều chiêu cảm từ nghiệp mà ra, bắt đầu từ ý nghiệp, chúng lưu giữ ở một nơi nào đó rồi khi cơ duyên thuận lợi nó lại hiển hiện lên, xấu có, tốt có, không xấu không tốt có. Đôi khi có những mơ tiên tri hoặc mang một thông điệp nào đó về Đạo. Thi Văn Thơ được sáng tác từ lúc ngộ được Phật Pháp, tùy theo cảnh duyên mà bài thơ được sáng tác, tất cả cũng vì chữ Tâm mà ra. Thi văn cũng là lời khuyên cho bản thân và mọi người biết quay về về Chánh Đạo, về Chân Thiện Mỹ Tuổi Thơ Những câu chuyện thời thơ ấu Sinh Viên Và Hôn Nhân Những bài sáng tác thời sinh viên, hôn nhân Thiên Cơ Những thông điệp của Chư Phật Bồ Tát, nhằm nhắc nhở mọi người tu hành để kịp hội Long Hoa Chỉ mong ai có duyên xem những đoạn ghi lại những khoảnh khắc nhỏ bé này, từ đó mở ra cánh cửa Đạo, để tìm đến con đường giải thoát, an lạc. Cầu nguyện cho thế giới hòa bình, quốc gia an lạc Bá tánh vạn dân từ tâm bát ái, giải thoát mê ly NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT Đường Giải Thoát 2016
ĐƯỜNG GIẢI-THOÁT THANH SĨ Đạo Phật giáo là nơi cứu khổ Độ chúng-sanh không bỏ một ai Lòng thương yêu khắp nhân-loài Không hề muốn thấy một ai khổ trần Đường chơn-chánh trên hơn tất cả Nẻo nhiệm-mầu chẳng có chi bì Muốn người rõ tánh từ-bi Cho nên Phật bảo con đi khuyên đời Đêm thanh vắng dùng lời nhiệm nhặc Khách thường trần bất đắc chơn-ngôn Riêng con tâm đạo thường tồn Với người cũng rán gọi hồn nhớ tu Kỳ qui-nhứt dễ đâu kiếm được Khuyên trẻ nên trau-chuốt tinh-thần Chừng nào định quốc an dân Thương người như thể thương thân mới rồi Con ôi! Nếu còn người vong bổn Riêng lợi danh, riêng sống cá nhân Vẫn còn có cuộc tranh phân Ấy là vốn tánh phàm trần xưa nay Kim cổ đã bao ngày luân-chuyển Do tâm trần suy-biến gây ra Lần này cũng chẳng còn xa Lập công ớ trẻ, kẻo mà huốt đi Cuộc xảy đến cực-kỳ khốc-liệt Chúng sanh cần chưởng-phước cho cao Con ôi! Nếu chẳng ba đào THUYỀN TỪ đâu nhọc công vào BIỂN MÊ Chớ rời khách, hãy kề bên khách Rước nhơn-gian Nam Bắc kẻo chìm Dù sao cũng chớ ngồi im Nếu còn có kẻ đắm chìm sông mê Không riêng để mình kề sen báu Muốn cho ai cũng đáo Tây-Phương Lánh đi cuộc tạm trần-dương Cùng nhau hiệp-lực mở đường dài lâu Nơi cõi tạm, thiên sầu vạn khổ Người tự làm nào có ai gây Muôn điều bởi một chữ SAY Khiến cho sanh-chúng đoạ-đày chung thân Con ôi! Chốn hồng-trần mù-mịt Bị lợi danh phủ bít chơn-linh Khiến cho hầu hết chúng-sinh Quên tìm kiếm lối cứu mình khỏi mê Tự mê đã chưa hề tỉnh-giác Còn làm khôn dẩn dắt người mê Đường mê thêm nổi dọc dề Gây thành cái thứ bệnh MÊ lưu-truyền Kẻ đã thức nhớ khuyên người tỉnh Thắp đuốc lên cho cảnh sáng ra Nhiệm-mầu có đủ rán mà phát-minh Chớ để đến thúi sình mất xác Lổi công sanh phí mất một đời Một khi để kiếp qua rồi Muốn tìm trở lại làm người khó thay Làm được người là may muôn thuở Cũng là do xưa có nghiệp lành Bây giờ nếu biết tu hành Tất là sẻ được trở thành Phật Tiên Con ơi! Hảy nhớ khuyên sanh chúng Phật Thích Ca xưa cũng là người Quyết tâm lánh bỏ lệ đời Đem thân sanh tử đổi nơi Niết-Bàn Dứt bỏ cả ngai-vàng điện-ngọc Hy-sinh luôn vợ đẹp con cưng Một lòng hành Đạo xã thân Việc chi cũng bỏ chỉ cần TỪ-BI Thương sanh chúng việc chi chẳng quản Tìm Đạo mầu tánh mạng xem thường Nhờ lòng đầy đủ nghị cương Thích Ca đắc đạo danh dương khắp trần Tu một thuở cứu thân vĩnh-kiếp Độ được mình còn vớt mẹ cha Thuyền to một chiếc sắm ra Tất nhiên chở hết cả nhà xuống đi Dấu Phật Tổ đã ghi rỏ lắm Chơn chúng sanh cần bám đi theo Muốn tu đừng có sợ nghèo Muốn thành Phật chớ nên đeo lòng tà Muôn việc đã nhiểm qua khó bỏ Cố bỏ đi dù có mất công Ban sơ khó tịnh được lòng Nhưng đừng thối chí cuối cùng sẻ nên Học Đạo lớn phải bền chí cả Muốn quả cao cần có công dày Thích Ca chứng quả Như-Lai Cũng nhờ chí cả, công dày mà nên Phật thành được, chúng sanh thành được Thánh với phàm chỉ một bổn-lai Khác nhau kẻ tỉnh, người say Chớ ai thì cũng Như-Lai đủ hình Tội chính bởi tại mình gây tội Mê cũng do mình gội hết mê Phật đi, Phật biết đường về Mình đi, mình lạc ngu mê tại mình Kẻ bị cảnh sanh tình phàm tục Người cố tâm sanh cuộc hồng-trần Càng mê, càng bước xa dần Càng gây nghiệp-chướng, càng đần-độn lung Biết ác mộng, phải bừng tỉnh dậy Thấy lầm đường thì chạy mau ra Nếu tâm còn chút dần dà Mộng sầu thêm nặng, lầm xa càng nhiều Tu phải tỉnh là điều trước hết Học phải hành là việc đầu tiên Ham chơi nên mới thành ghiền Tự lòng trói buộc, tự nguyền gở ra Lẻ siêu đọa Phật đà chỉ dạy Nghiệp dử lành người phải tự lo Tự mình ăn mới được no Bắt người khác thế ăn cho thì lầm Thiếu hạnh phải tự làm lấy hạnh Chưa biết tu, tự tánh lo tu Chuyển thân từ sấu hóa cù Mình không tu được, ai tu cho mình? Người với con đồng sinh cỏi tạm Con với người đã nặng nhơn duyên Con thiền rán độ người thiền Bỏ người đi xuống, mình lên sao đành Học Phật phải rộng tình tế-độ Nói pháp cần phá bỏ chấp tâm Phật riêng tế-độ Phật lầm Pháp còn có sự chấp tâm pháp tà Mẹ nuôi con xót xa chẳng nệ Phật độ người đâu kệ công lao Hai tâm hồn rất giống nhau Mẹ giàu tình cảm, Phật giàu từ-bi Tình yêu con đem đi yêu chúng Tánh lo tự để dụng lo công Tất nhiên cùng Phật một lòng Tội không thể có, mê không thể còn Mẹ ăn chi cho con ăn nấy Phật thành mong vạn loại đều thành Lòng nguyền độ tử, độ sanh Tình đời đâu sánh kịp tình từ-bi Mẹ yêu con quản chi đẻ chửa Phật thương người đâu xá tử sanh Niết-Bàn là chốn an lành Lâm phàm độ chúng không đành ngồi yên Người tưởng Phật muôn thiên có một Phật nhớ người giờ phút không quên Khi nghe có tiếng khóc rên Thì lòng Phật tợ như tên bắn vào Thời mạt-pháp tà cao hơn chánh Buổi hạ nguơn ít Thánh nhiều phàm Cho nên nạn ách bao hàm Mắt từ-bi thấy, đâu cam ngồi nhìn Cậy sức mạnh chúng-sinh gây họa Ỷ tài cao thiên hạ khởi binh Giết người, người giết lại mình Càng xem càng bắt động tình từ-bi Quá thông-thái, người khi Trời Phật Lắm văn-minh, chúng miệt huyền-cơ Khi Trời, Trời phạt bất ngờ Miệt huyền-cơ, bị huyền-cơ trị-trừng Triệu ức năm qua từng thế đó Chẳng phải là mới có đây đâu Tiêu tan trên mặt địa cầu Muôn lần rồi chớ phải đâu một lần Núi nổ, khắp xa gần đều cháy Nước tràn đầy, khôn dại cũng trôi Tranh đòi mỗi một lần bôi Cỏ cây đều sạch, thú người đều tiêu Cầm ngọn đuốc mà thiêu ổ kiến Lấy đá to mà liệng trứng gà Chúng sanh thử tưởng-tượng ra Kiến kia sống chết, trứng gà nát không? Kỳ đại-hạn cũng đồng cảnh ấy Khi tẩy trần trông thấy hải kinh Thây bèo xác bọt linh-đinh Diều tha, quạ xé chúng-sinh tử nàn Trời héo mặt, gà vàng cũng vắng Đất châu mày, thỏ trắng bặt tin Nhìn vào đại nạn chúng-sinh Quỉ thần còn phải thất-kinh vía hồn Thật ra việc sanh-tồn kỳ chót Tài không hơn nơi đức ở con Đức tuy không thấy mà còn Tài coi rần-rộ mà mòn như cưa Cọp với beo tranh đua oai-dũng Bại nát mình, thắng cũng trần thân Người tám lượng, kẻ nửa cân Chung qui ai cũng rả thân tiêu hồn Kẻ tự cho rằng khôn mà dại Người bị coi là dại lại khôn Tài tiêu còn đức thì tồn Đó là chung-kết của môn đấu trần Cuộc thắng bại phải cân nhắc kỹ Nẽo tồn vong cần nghĩ suy rành Phải mau bỏ dử về lành Dù không tôn-giáo cũng hành thiện-lương Lành chẳng khác buồm trương thuận gió Dử như là chấu nhỏ chống xe Tu hành việc cả rán nghe Đời nầy hung dử chỉ là giết thân Con ơi! mặc người xưng tài sức Phần con nên chủ đức là hơn Đức sau trước cũng vì nhơn Tài thường trước, đức sau thân là nhiều Tài không đức chỉ chiêu khổ họa Đức không tài chỉ gá tai ương Tài thêm có đức đồng tương Khác nào rồng được mây vương lấy mình Có tôn-giáo phải gìn chánh-đạo Không thần-quyền cũng tạo hiếu-trung Ở ăn đạo nghĩa bất tùng Khác nào cá nọ mà chung vào lờ Mỗi việc ác, mỗi tờ giấy nợ Thân nay chưa thì đợi thân sau Vay bao thì trả cũng bao Xưa nay nhân-quả luật nào nễ ai Thời mạt-pháp trả vay rất chóng Kỳ hạ-nguơn chết sống lẹ thay Đời xưa trả báo thì chầy Đời nay trả báo một giây nhản tiền Tiên quá bước huờn nguyên trần-tục Thánh lộn đường giây phút phàm-phu Tu hay là chẳng có tu Bề ngoài không kể, chỉ thu tâm-hồn Tâm giác được, phàm nhơn hóa Thánh Tánh mê còn, Tiên dính hồng-trần Thăng-trầm tự xử lấy thân Lấy câu nhân-quả định thân khỏi lầm Tự xét mình khởi tâm thiện ác Tự xét mình tạo-tác hung hiền Khỏi cần hỏi ý Thần Tiên Tự mình cũng biết nghiệp-duyên thế nào Ăn chanh muốn ngọt ngào không được Làm dử mong có phước khó thay Một cùng với một là hai Trồng chi hưởng nấy xưa nay không lầm Con thương chúng khóc thầm đòi bửa Phật nhìn đời bắt ứa lòng vàng Mười người hết chín người gian Ngoài đời đã chán còn loan trong chùa Đạo-đức chỉ là khua ngoài miệng Tu hành không một chuyện trong lòng Kệ kinh học nói cho thông Khác nào con két nhái ông chủ nhà Nói thông-thái kể ra sao hết Làm trái ngang chẳng việc nào xong Đáng thương cho kẻ tốt lòng Bị người lừa gạt mà không biết gì Đến như Phật từ-bi vô hạn Cũng bị người giả dạng tăng-ni Làm cho sanh-chúng ngờ nghi Cửa thiền vắng bóng, đạo nghì lãng tâm Con ơi! Đạo thậm-thâm vi-diệu Chúng luống công khuấy nhiễu không tan Chỉ thương cho khách trần-gian Bị lòng ngờ-vực chận đàng từ-bi Long-Hoa vốn kỳ thi công-đức Hạ-Nguơn là chính lúc chọn lừa Lành thì làm, dử nên chừa Thiện tồn, ác thất, Thiên-Cơ định rồi Núi cao vút bổng trôi thành biển Biển sâu hòm lại biến non cao Ruộng khô tức khắc sông hào Sông hào nháy mắt biến vào rừng sâu Cuộc thay đổi lời đâu nói cạn Cơ nhiệm-mầu biết dặn sao cùng Từ-bi với kẻ hiếu-trung An tâm nhờ Phật hộ tùng ngày đêm Dử rán bỏ, chớ thêm việc dử Lành nên làm thêm sự hiền lành Tồn-sanh sẻ được trường-sanh Thượng-nguơn trở lại thái-bình an vui Con ơi! Khi thắm mùi đạo-hạnh Như rồng kia thêm cánh nhẹ bay Đời thay mình chẳng hề thay Cùng chơn Bồ-tát, Như-Lai đồng thiền Mau thành bởi lành duyên kiếp trước Sớm nên do chưởng-phước hiện nay Cố công lượm lặt một ngày Được nhiều hơn kẻ bỏ hoài suốt năm Trước không biết sau tầm sẻ rỏ Xưa chẳng tu, nay ngộ thì thành Dử xưa, nhưng hiện nay lành Lành còn, chớ dử tan tành còn chi Xưa lành nhưng nay thì làm dử Dử còn ra, lành sự đâu còn Khác nào nhà mới son son Châm dầu đốt rụi chỉ còn đống than Lành rán làm, lành toàn chung-thỉ Dử chớ theo, dử chí cùng đường Dử lành vốn ở tâm-vương Chủ tâm chớ để vào đường ngục-môn Hồn chủ xác là tồn tại mãi Xác chủ hồn là hoại diệt luôn Chìu theo sở-dục ngông-cuồng Chỉ mau hủy kiếp vô-thường ích chi Lấy thần-trí chỉ-huy thể xác Thể xác không dẩn dắt đường tà Học theo gương Phật Thích-Ca Lấy thần trí đạo thắng qua dục trần Đời tàn lại nhằm cơ hoại diệt Kiếp tạm còn gặp dịp sảy sàng Mười phần hết chín phần tan Một phần còn lại toàn vàng với châu Không cánh mà bay đâu cũng tới Ngồi một nơi thế-giới xem cùng Giả, chơn lắm sự lạ lùng Phật ma khó biết rối tung loài người Quá vật-chất bị đời ám ảnh Yếu tinh-thần bị cảnh cuốn lôi Chung qui chẳng việc nào rồi Chỉ làm đau khổ cho đời nhiều hơn Rán mở trí để cân giả thiệt Nhờ bình tâm xét việc chánh tà Đời nhiều khôn khéo quỉ ma Đụng đâu tin đó thì là lầm to Học khôn quỉ thường lo việc quỉ Dựa tánh phàm chỉ nghĩ thân phàm Bảo thân phàm đủ cách làm Làm theo khôn quỉ, thân phàm mau tiêu Được giải-thoát là điều hơn hết Còn luân-hồi phải chết chóc luôn Luống công bọt nước đóng khuôn Giả thân kết cuộc cũng huờn giả thân Phải tỏ ngộ, đường trần mới dứt Được hết mê, bến tục mới rời Mê là gốc khổ con ơi! Còn mê, thiên hạ chưa thời nào vui. Bởi mê mới làm tôi thị-dục Nếu ngộ đâu tùng-phục lòng tà Dục, tà đều hại người ta Dục là thống-khổ, tà là trầm-luân Dục thường vì xác thân khởi xướng Tà thường vì vọng-tưởng gây ra Cả hai đều thứ mắt loà Lợi gần thì thấy, hại xa không tường Gần dứt thở trên giường chưa biết Bảo vợ con nối tiếp đường lầm Vì tình mà thọ cảm tâm Vợ con rồi cũng lũi lầm theo luôn Nghiệp cha mới vừa buông, con bắt Hết cháu rồi kế chắt nối truyền Cứ như thế đó lưu-liên Gây nên một khối thảm duyên nhiều đời Cha mẹ chết con rơi nước mắt Con chết thì cháu chắt khóc ròng Vợ thì chan-chứa vì chồng Chồng thì vì vợ đôi giòng lệ rơi Nước mắt ấy từ đời vô-thỉ Bốn biển to đem ví không bằng Sanh-ly, tử-biệt vô ngần Giây oan đáng sợ, nợ trần đáng ghê Vạn sự bởi ma mê dẩn lối Trăm việc do quỉ tối cầm đầu Giác xong, mê nọ còn đâu? Ngộ rồi lối ấy bị thâu mất liền Trong tâm khởi dử hiền phải biết Lấy trí phân hư thiệt cho rành Nếu điều tà niệm còn sanh Tự mình trừng-trị tảo-thanh lòng mình Hành đạo phải tự tin đầy đủ Tham thiền cần tự chủ hoàn-toàn Vọng trần vừa mới thoáng ngang Chận ngay chớ để lan tràn trong Tâm Chừng nào cảnh hết làm Tâm loạn Khi ấy Tâm đã đoạn cảnh trần Chánh tà đều được minh-phân Nhưng đừng để tánh ngã-nhân chen vào Tâm, cảnh chẳng còn màu hổn-độn Tà, chánh không xáo-trộn trong lòng Như là vật với Hư Không Tự nhiên ánh-sáng đại-đồng bừng ra Con ơi! Phậ Thích-Ca đắc-đạo Bị ma-vương khảo-đảo lắm lần Nếu Tâm còn chút vọng-trần Tất không đạt được quả phần Như-Lai Ngồi niệm Phật thì ai cũng niệm Nhứt Tâm, không xao-xuyến ít người Tâm như chong chóng giửa Trời Phật thì một niệm, còn mười niệm ma Các việc xấu nhớ ra trước nhứt Kế tay chân buồn bực mỏi mê Rồi ma buồn ngũ chạy về Phật quên niệm đến, khói mê phủ vào Không cần hỏi Ông nào cũng biết Niệm thế bao giờ Phật chứng cho? Khác nào nồi gạo mới vo Bắt lên nhắc xuống bao giờ chín cơm? Mục đích việc sớm hôm niệm Phật Là để cho chấm dứt niệm tà Chỉ còn một niệm Di-Đà Để nhờ Phật rước sang qua Liên-Đài Có thật cảm Phật Ngài mới ứng Niệm lơ là Phật chứng vào đâu Ví người đã rớt sông sâu Không cần kêu cứu, ai hầu cứu cho? Niệm Phật chẳng béo no chi Phật Phật cũng không mong nhắc đến tên Chúng sanh muốn Phật vớt lên Cho nên mới tưởng niệm tên Phật Ngài Phật nguyện độ muôn loài thoát khổ Nd6n khi nghe ai có lời xin Phật thêm động tấm bi tình Như là mẹ thấy con mình lâm tai Phật nhứt định không sai lời nguyện Nhưng chúng sanh phải niệm chí-thành Chỉ là một niệm trọn lành Cũng là được Phật thân-hành đến nơi Hoặc chẳng niệm một lời chi cả Nhưng thường hay có dạ từ-bi Trần ai chẳng nhiểm vật gì Cũng là được Phật hộ-trì ngày đêm Người tự độ cầu thêm Phật độ Như nước xuôi lại gió thuận chìu Đường về chóng biết bao nhiêu Được hai sức độ mau siêu phàm-trần Tuy có được tinh-thần bác-ái Cũng nhớ nên tưởng vái Di-Đà Kỳ nầy Phật ấy ghé qua Rước về Cực-Lạc ngồi Tòa Kim-Liên Cỏi ấy chẳng não-phiền đau khổ Tuổi sống lâu vô số vô biên Muốn chi thì được có liền Thân người nào cũng bằng sen hóa thành Cỏi ấy vốn trọn lành, trọn tốt Cỏi ấy không ai chết, ai già Thường ngày có đức Di-Đà Dùng thần-thông hoá hiện ra muôn hình Người nào cũng quanh mình đều sáng Ai cũng đều viên-mãn thần-thông Đường xa muôn dặm Tây Đông Nhưng đi chỉ mất độ trong phút giờ Người cỏi ấy thường trưa mỗi bửa Đi cúng dường Phật ở khắp nơi Đi về trong buổi ngọ thời Người nào cũng muốn thỉn lời Như-Lai Nên ai cũng đồng giai Bồ-Tá Không người nào sa-lạc phàm-phu Hạ-Nguơn kẻ phát tâm tu Cầu về Cực-Lạc là đầu nhập môn Cỏi ấy vốn người thân-thiện cả Ai muốn sang phải dạ lương-hiền Cỏi sen người phải như sen Gần bùn mà chẳng ố hoen mùi bùn Cỏi lành kẻ dử hung khó bước Phật từ-bi chẳng rước bất lương Muốn về Cực-Lạc Tây-Phương Các điều hung dử chớ vương điều nào Lá già thì trước sau cũng đổ Để lá non thay nở nên cành Hết đời trược, kế đời thanh Luật đào-thải ấy đã dành từ lâu Thuở xưa quả địa-cầu rất tốt Đất bằng vàng, thảo-mộc bằng châu Người nào cũng dung nghi tốt đẹp Ai cũng đều hiền-đức thông-minh Nhỏ lần cho đến hiện tình Lòng người hoá xấu, địa hình quá dơ Đến lúc phải ban sơ lập lại Khó tránh ngày có đại biến đi Chính là cũng một cuộc thi Ai rơi ai đậu trong kỳ này đây Đức Tiếp-dẩn kỳ này cũng tới Rước hiền-nhơn thế-giới Ta-Bà Đem về Cực-Lạc Di-Đà Dứt đường sanh-tử, lánh xa hồng-trần Bá tánh nhớ tu thân, lập hạnh Nữ nam cần cải chánh trừ tà Loc lừa trận ấy nổi ra Có Thần che chở cho qua tai nàn Thiếu đạo-đức sắt gang cũng chảy Thật hiền lành bới cạy không trôi Luật kia đã định sẳn rồi Lành thời tồn tại, dử thời tiêu-tan Ngòi pháo đốt tất vang tiếng nổ Họa gây ra thì khổ hại thân Cũng nên xét kỹ xa gần Cho hồn khỏi đọa, cho thân khỏi đày Hồn bị đọa, khó khai ngộ được Thân bị đày khó vượt lao lung Dẩn nhau đi tới đường cùng Thân tròng thêm tội, hồn tròng thêm mê Thê thảm rồi, kế thê thảm tới Ma củ đi, ma mới hiện vào Lúc nào biển cũng sóng xao Chúng sanh chẳng có lúc nào đứng yên Phần lớn bị bạc tiền mờ trí Ít ai mà chủ-trị được tâm Nghèo thì bị bạc làm câm Giàu thì bị của giam cầm chung thân Xưa nay chốn hồng-trần như thế Hơn thua nhau chỉ kể đồng tiền Giòng đời xuôi ngược đảo-điên Đều do cái thứ bạc tiền mà ra Thứ tiền bạc người ta tạo nó Rồi người ta lại khổ vì tiền Không tiền, nói phải cũng điên Có tiền nói quấy cũng thiên người ừ Trâu bò thì bị người xỏ mủi Người bị tiền bạc cởi trên lưng Trâu bò chỉ khổ xác thân Người thì xác thịt, tinh-thần khổ luôn Khổ đến chết không buông được nó Mà nhiều người lấy đó làm vinh Tiền xem trọng, nghĩa xem khinh Ngày nay thế-giới chỉ tin đồng tiền Tiền là bạc không yên một chổ Nay tay nầy, mai ở tay kia Người thường vì nó rẻ chia Gây ra đổ máu đầm-đià khắp nơi Chủ được nó là đời hạnh-phúc Nó chủ mình là mất tự do Làm ra để giúp để cho Chớ gom góp để bo bo giử đời Đem giúp đở cho người chẳng mất Cứ bo bo giử cất không còn Vật mòn biết dụng không mòn Tiền đừng nên bạc nên tròn nghĩa ân Ham tiền, bị hư thân lắm kẻ Mến bạc, nhiều người nhẹ giá danh Gái thì bán mất tiết-trinh Trai thì trộm cướp hoặc sanh gian hùng Thân cho mấy khi lòng mến bạc Tình thân kia cũng nát như tương Tự mình bóp chết tình thương Mà không sáng mắt bởi vương bạc tiền Tiều dùng đúng, tiền hiền như Phật Bạc xài lầm, bạc ác hơn ma Phật ma cũng tại người ta Chớ tiền bạc nó vốn là vô-tri Nhiều tiền kiếp Mâu-Ni giàu có Bạc tiền đâu làm khổ được Ông Mà là nhờ có tiền đồng Giúp Ông bố-thí khắp trong dân làng Đó là một trong ngàn công-đức Phật Thích-Ca chứa chất từ xưa Dùng tiền như hạn cho mưa Biển non đo cũng chẳng vừa đại ân Phật xưa cũng xác trần cỏi tạm Ngài cũng tình cũng cảm như ai Thế mà Ngài chứng Như-Lai Nhờ lòng bố-thí, nhờ hay nhân-từ Phật làm thế, nay người cũng thế Tất nhiên là ngồi kế Phật Ngài Nhớ câu trọng nhgĩa hơn tài Tiền tài chớ để nó sai khiến mình Ai có của bỉ khinh cũng mặc Đừng vì tiền gay gắt với ai Có ra thì đở xây xài Không thì nhịn chịu chớ cay đắng lòng Nghèo nhớ giử lòng trong dạ sạch Giàu đừng quên bố đức thi ân Nên cho kẻ khác lây phần ấm no Được như vậy, được kho công-đức Sống đời đâu khổ cực vì đời Trong tâm thường được thảnh thơi Tuy trong cỏi tục mà đời Thần Tiên Tiên với tục dính liền mặt trái Để vậy phàm, lộn lại là Tiên Cũng thời xữ-dụng đồng tiền Người lo quần chúng, kẻ riêng lo mình Lo quần chúng là tình Tiên Phật Lo riêng mình là chất phàm nhân Tình Tiên Phật hết trầm-luân Chất phàm nhân tất còn thân luân-hồi Phật phàm có thế thôi đâu khó Làm hay không việc đó tại người Người đâu bóng đó không rời Ngoái đầu ngó lại mặt trời thấy ngay Xưa ma đó, bổng nay Phật đó Cây với thuyền nào có xa nhau Khéo tay moi móc ghép vào Thì cây nên được thuyền tàu khó chi Chúng sanh chớ bỏ đi tự lực Mọi người nên lấy sức của mình Phàm tình đổi lại Thánh tình Tự mình sửa lấy lòng mình hơn ai Chớ ỷ lại kẻ ngoài cứu vớt Phải tự mình tìm cách thoát ly Thật tâm tự độ mình đi Tự nhiên có Phật hộ-trì khỏi lo Không tự độ muốn cho Phật độ Khác nào như đất bỏ không trồng Ví dù mưa xuống ngập đồng Trái bông cũng chớ có hòng sanh ra Biết tự trị tức là tự độ Làm lành, còn dử, bỏ không làm Dù cho lòng rất muốn ham Nếu là việc quấy cũng cam nhịn chừa Muốn thì cứ làm bừa không xét Trong mười điều hỏng bét chín điều Muốn điều lành chẳng bấy nhiêu Muốn điều hung dử lại nhiều gấp mươi Cho nên mỗi một điều muốn nói Hoặc trước khi muốn khởi việc làm Phải cần hỏi lại lương tâm Xét coi việc có lổi lầm hay không Gặp việc khó thấy lòng bối rối Riêng mình không hiểu giả hiểu chơn Nên tìm hiểu bậc hiền nhân Chớ nên nhắm mắt đưa chân đi càn Lỗi với người khó toan chuộc tội Lỗi với mình sửa cải dễ đâu Lỗi thân, thân chịu dải dầu Lỗi lòng, lòng chịu âu sầu mê man Thân lao khổ, bất an lòng dạ Lòng âu-sầu, thân thể mòn hao Không âu-sầu, chẳng khổ lao Lòng đừng để một phút nào rời thân Phải tu luyện, tinh-thần sáng-suốt Cần dưỡng-nuôi, hạnh-phúc đủ đầy Cây cong uốn mãi cũng ngay Người hư thế mấy, sửa hoài cũng nên Học hỏi vốn là nền trí-thức Sách kinh là cái nút tâm-linh Cần học hỏi, đọc sách kinh Giúp cho sức hiểu của mình rộng ra Lành kém trí như nhà thiếu cửa Hiền mà ngu như ngựa cái mù Hiền minh chớ để hiền ngu Lành thì lành trí, chớ tu suông lành Tu có hành, giá danh châu báu Tu không hành tiếng nhạo đá chai Tu hành cần được cả hai Trong hai thiếu một chẳng xài vào đâu Chớ học nói ít câu hán-tự Tự cho mình hay chử là lầm Chữ đâu nghĩa đó cho thâm Chử không hiểu nghĩa như câm khác nào Đức không tài như dầu thiếu lửa Tài thiếu đức tợ ngựa không cương Đức tài có đủ hai phương Lửa dầu gồm đủ, ngựa cương sẳn sàng Đạo có hạnh, mới rằng học Đạo Tu không hiền, ai bảo là tu? Cửa thiền nay quá mờ lu Do người giả đạo, dối tu phần nhiều Đạo không hạnh là tiêu diệt Đạo Tu làm hung là đảo ngược tu Mù còn có thể hết mù Tội lường gạt Phật dể dù gì tiêu Tội vô ý, còn nhiều chổ thứ Tội cố tình, luật xử không tha Nếu tu không được thì ra Chớ mưu lấy Đạo làm nhà buôn dân Tạo ngu dại, hưởng phần ngu dại Làm ác gian, hưởng cái ác gian Chạy Trời sao khỏi nắng chan Hại người mù, tất phải mang kiếp mù Thù người, bị người thù khó trốn Tổn hại người, người tổn hại mình Nhân nào quả nấy công minh Người trong Hạ-giới chớ khinh Lưới Trời Con ơi! Phật lập lại lời nói trước Đời Hạ-Nguơn vô phước thì nhiều Nghiệp mê không những khó tiêu Họa sầu trái lại dể chiêu vào mình Việc trả báo rất nhanh khó tưởng Sớm gây thì chiều hưởng không lâu Thần minh tuy chẳng thấy đâu Nhưng mà mọi việc đều tâu Ngọc-Hoàng Tội đền tội, bạc vàng khó chuộc Phước thì là gặp phước khỏi lo Công bằng Ngọc-Đế cân cho Mảy lông không lọt, chớ lo sai lầm Vừa mới nghĩ trong tâm chưa lộ Nhưng Thần minh đã rỏ dử lành Sức thần hiểu biết rất nhanh Phàm gian chớ có vọng sanh điều tà Điều tà mặc dù là chỉ nghĩ Song cũng làm tâm trí lu mờ Khởi ra ý xấu ban sơ Diệt liền chớ để dây dưa lâu ngày Ý nghĩ xấu kéo dài bao độ Hành động tà càng lộ bấy nhiêu Hiểu rồi cương-quyết trừ tiêu Chớ nên tha thứ nuông chìu vọng tâm Vọng tâm nếu chẳng làm yên lặng Ví dù ngồi bên cạnh Phật Đà Cũng không hề được thấy ra Bị tâm vọng nó làm lòa mắt đi Tâm vọng rất làm nguy hạnh-đức Người tu hành chưa dứt vọng tâm Như ôm rắn độc mà nằm Thân kia không biết họa lâm lúc nào Tâm vọng dứt mới vào cỏi Phật Vọng tâm còn khó nhập Niết-Bàn Vọng tâm là gốc mê man Chúng sanh vì nó sáu đàng chuyển-luân Lúc niệm Phật, tâm thần xao-xuyến Khi tham thiền, lười biếng mỏi mê Thấy trong đầu óc nặng nề Ấy là ma nghiệp vổ về đầu tiên Nếu ý-niệm để nghiêng theo nó Thì đạo tâm từ đó lần phai Đến khi tới trước Phật đài Mà tâm vẩn loạn là ngày nguy cơ Phật không phải chỉ thờ lấy vị Thờ Phật là biểu thị lòng tin Lòng tin càng được chặt gìn Càng cao đức-hạnh, càng bình-định tâm Không thờ Phật mà thầm tin-tưởng Hơn thờ mà bỏ luống không tin Có tin mới biết sửa mình Không tin đâu bỏ hành-trình xấu xa Tin là mẹ đẻ ra ngôi Phật Tin là thuyền cứu vớt chúng sinh Có tin thì mới có thành Thiếu lòng tin-tưởng, tu hành sao nên Tin-tưởng mạnh, tất bền ý-chí Ý-chí bền thì vị quả nên Không tin thì chí không bền Không bền chí sẻ không nên đạo mầu Việc càng khó, càng sâu tin-tưởng Tin-tưởng sâu thì chướng-ngại tiêu Tin là thứ phép cao-siêu Sẻ làm như ý, sẻ tiêu ma tà Tin -tưởng Phật thì là gặp Phật Tin-tưởng ma thì gặp quỷ ma Chử tin đối với người ta Rất nên quan-trọng lựa mà tin theo Tin-tưởng vốn là điều cần-thiết Nhưng phải nên suy-xét kỷ càng Chánh đường khi thấy rỏ ràng Chừng ni sẻ đặt lòng vàng tin theo Tin dể dải, thường gieo ân-hận Tin bướng càn, lầm lẩn phần nhiều Không tin thì đạo không siêu Dể tin quá cũng chẳng tiêu nghiệp trần Dể tin tất tâm thần dễ động Dễ động tâm, dễ móng sự trần Sự trần dắt được tâm thần Khác nào như bị thọt chân vào còng Sức tự chủ đã không còn nữa Quyền hành do SÁU ĐỨA GIẶC TRẦN Tha hồ thỏa mản nhục thân Tâm hồn cứ thế mê dần đi thôi! Mạng sống chỉ là mồi thị-dục Tâm hồn thì lệ-thuộc xác thân Loay hoay ở giửa ngục trần Lúc nào cũng sợ tử-thần đến kêu Giàu cũng sợ, mà nghèo cũng sợ Chủ cũng lo, mà tớ cũng lo Những người chức trọng, giàu to Vấn đề chết chóc sợ lo hơn nghèo Nhiều ham muốn thì đeo nhiều khổ Vọng-tưởng luôn đâu có yên lòng Kẻ thì tốn của, người công Kẻ dùng tài sức, người dùng tâm tư Lo đến chết không như ý được Hết muốn này đến lượt muốn kia Mồ hôi nước mắt đầm-đìa Mà lòng ham muốn nọ kia chưa vừa Kẻ được sớm thì trưa lại chết Người chiều nên bổng mất sớm đi Lúc còn trẻ lại ngu si Chừng thông-minh được là khi đã già Nhơn-loại chẳng ai mà thuận cảnh Chúng sanh không ai rảnh trong lòng Thế mà chẳng việc nào xong Chết rồi mà vẩn còn lòng nuối theo Bởi tiếc nuối giàu, nghèo, thương, ghét Bởi tạo ra các nghiệp tiền trần Nên sau khi đã bỏ thân Đi theo nghiệp ấy chuyển luân lại liền Nghiệp lôi cuốn như ghiền bệnh ruợu Khi thèm, không ai rủ cũng đi Hôm qua say ngũ li bì Bửa nay say nữa, dễ gì bỏ say Nghiệp thế, phải đầu thai cỏi thế Mến trần thì sinh đẻ nơi trần Quả sanh vì bởi có nhân Nếu nhân không có, quả sanh bao giờ Trước cũng bởi vì nhơ bợn thế Nay mới rơi trong bể hồng trần Hiện thời nếu chẳng tu thân Sau nầy khó tránh khỏi phần đầu thai Tùy theo nghiệp mỏng dày đã tạo Mà trí ngu, bần phú khác nhau Nhưng dù khôn dại, nghèo giàu Vẩn già, vẩn chết, vẩn đau khổ đời Những cái khổ hồi thời quá khứ Người đã quên thành thử không ghê Thật ra là một tràng mê Từ hồi vô thỉ kéo lê tới giờ Biết bao kiếp lên bờ, xuống nước Khi thăng Tiên, khi rớt lại phàm Lúc người, lúc thú, lam nham Kể sao hết cuộc thăng-trầm tiền thân Khi thì phú, khi bần tột hạng Lúc ấm no, lúc chẳng áo cơm Khi ngói gạch, khi lá rơm Lúc thì quan tướng, lúc làm tù nhơn Kiếp thì bị treo thân lũng lẵng Kiếp thì ngồi chỏng cẳng ra oai Kiếp thì chết chẳng chôn thây Kiếp thì tống táng, chật ngoài, chật trong Khi thì xác trôi sông chập chả Khi thì thây tan rả giửa đồng Kể sao hết chuyện não nồng Của tiền kiếp, khách hồng-trần đã mang Kiếp làm gái, chịu đàng đẻ chửa Kiếp làm trai con vợ đùm đề Khi thì trọn kiếp phu thê Khi thì bướm chán, ong chê giửa chừng Có khi bị cùi phong, xụi bại Có khi thì điên dại, mù câm Sống không nhà cửa ăn nằm Lang thang đường phố xin ăn qua ngày Có kiếp bị bọn trai lừa gạt Có kiếp thì bị thác vì tình Kiếp thì làm đĩ bán mình Kiếp thì cô quạnh trong tình cấm cung Khi thì được anh-hùng vang dội Khi thì mang lấy tội phản thần Lúc thì quý tợ vàng cân Khi thì rẻ nát còn hơn con dòi Kiếp thì được người coi vua chúa Kiếp thì ra thân đứa ăn mày Mới cười, kế khóc chua cay Cứ như thế đó đổi thay không ngừng Như lời đã vừa phân đoạn trước Giàu, nghèo do tội phước mõng dày Không cần phải hỏi nơi ai Tự mình suy cũng hiểu ngay thế nào Kiếp trước mở hồ bao bố-thí Nên kiếp này địa-vị giàu sang Kiếp này bỏn-sẻn tham gian Kiếp sau đói khó nghèo nàn tả tơi Nghiệp dâm đảng sanh nơi đỉ điếm Nghiệp ruợu chè sanh chốn tửu lâu Nói sơ, chẳng kể hết đâu Nghiệp đâu sanh đó, khó hầu đi sai Mới kiếp trước ghét cay, ghét đắng Kế kiếp sau làm bạn, làm chồng Luân-hồi lộn bậy cỏi hồng Khi cha, khi mẹ, khi chồng, khi con Mới đời trước đánh đòn đứa ở Kế đời sau làm tớ bị đòn Chết rồi nhưng nghiệp vẩn còn Mạnh thì nở trước, yếu tồn lại sau Cuộc luân-chuyển chừng nào mới hết Nếu chúng sanh còn kết giây oan Ở trong ba cỏi, sáu đàng Như là giửa bải chiến-tràng khác chi Người biết giúp người, thì ít có Người hại người, thì số vô biên Tranh hơn ở kiếp hiện tiền Quên rằng tội ác còn truyền hậu lai Danh không chánh, chỉ gây hậu hoạn Lợi bất nhân, hưởng chẳng lâu dài Vui nay để chịu khổ mai Mà không nghĩ đến, đời nay nhiều người Nay đắc thế, chê cười hèn yếu Mai thất thời, phải chịu cười chê Đời thường nay tướng, mai hề Chớ nên hiếp đáp, nhúng trề môi ai Lúc mạnh, khá nhớ ngày yếu dở Khi giàu, đừng quên thuở bần cùng Ở ăn giử mực trung dung Sống không kẻ oán, chết không người hờn Kẻ đã hiểu đâu chơn, đâu ngụy Khá khuyên người chổ mị, chổ không Chưa làm, chỉ tính trong lòng Cũng là ảnh-hưởng chớ hòng tính gian Thường nghĩ tốt, có Thần Phúc hộ Hay tưởng xằng bị Họa Thần theo Họa Thần theo, tất nạn eo Được Thần Phúc hộ thì tiêu tai nàn Lòng dạ ác, có màng tối phủ Tâm tánh lành, có lưới sáng bao Mắt Thần khi ngó nhìn vào Tức thời biết rỏ người nào hiền, hung Màng tối phủ, ma nung, quỉ giục Lưới sáng bao, Thần chúc, Phật ban Quỉ ma nung giục thì tàn Phật Thần ban chúc thì an lạc đời Lòng lành dử lộ nơi nhơn tướng Khách nữ nam đừng tưởng nằm yên Trong tâm vừa muốn mưa phiền Thì là ngoài mặt cũng liền kéo mây Phàm thấy sắc tướng ngoài còn biết Thánh xem còn thấu-triệt đáy lòng Tâm không mà chẳng phải không Mười phương chư Phật đều trông thấy rành Tâm đổi dạng, khi lành khi dử Tâm biến thành lúc thú, lúc người Ấy là tâm vọng của đời Nó thường theo cảnh mà dời đổi luôn Tâm vọng ấy nếu còn vọng mãi Thì chúng sanh còn phải chuyển-luân Vọng tâm nếu được lặng ngưng Phàm nhân trở lại Thánh nhân tức thời Gốc tâm vọng do nơi cảm nhiễm Thói quen ưa đã chiếm trong lòng Lúc nào cũng muốn cũng mong Trong tâm đâu có vắng không lúc nào Thường vì quá ước ao thèm khát Nhiều khi gây thành giấc chiêm bao Lỗi lầm lúc thức phạm vào Đến khi ngũ cũng chiêm bao lổi lầm Khi người để vọng tâm chi phối Thì tinh-thần mệt mỏi tối đen Chỉ làm theo cái thói quen Xấu xa cũng mặc, đê hèn cũng thây Thói quen khiến thường hay vọng-tưởng Chưa vừa lòng vẩn muốn chưa thôi Thêm đời nhiều thứ cuốn lôi Càng làm ý muốn con người nhiều thêm Việc phước đức không thèm muốn đến Sự tà gian cứ mến theo luôn Xấu xa chẳng biết hổ buồn Biết bao kẻ bị điên-cuồng lợi-danh Thấy sắc đẹp, động tình muốn lấy Nghe lợi to, mong chạy đến giành Của ai thấy cũng mong manh Đến như của mẹ, cha mình còn tham Cậy quyền thế, lấy ngang lắm kẻ Dùng trí khôn, chia xẻ nhiều người Muốn cho lấy được không thôi Dù ai oán ghét chê cười cũng trơ Biết rằng quấy, không chừa chẳng bỏ Hiểu là sai, cứ mó vẩn đeo Cố tình tội lỗi giắc reo Lòng tham muốn lấy, hiểm nghèo vô biên Lời lành có người khuyên không nhớ Việc dử không ai trỏ chẳng quên Thói quen từ trước nổi lên Thường nghiêng theo dử, ít nghiêng theo lành Sự cảm nhiểm kết thành nhiều kiếp Cho nên khi gặp dịp nở liền Nghề nào kiếp trước đã chuyên Kiếp này nghề ấy người liền hiểu ngay Luân hồi có khi dài, khi ngắn Có khi vừa chết đặng ít ngày Thì liền bị dắt đầu thai Làm người trở lại, nhớ ngay kiếp người Nếu bị nghiệp sanh nơi cầm thú Sống theo loài rừng rú ngu đần Sau dù trở lại nhân thân Dể quen tánh thú, nhiều hơn tánh người Những tạp-quán hồi thời quá khứ Nếu như không cơ hội chạm va Thì là khó nổi nhớ ra Thói quen nằm mãi nơi nhà nghiệp duyên Nếu ma quỉ sanh lên nhân loại Dể cảm theo cái thói quỉ ma Chánh đường nếu chẳng xông ra Thì là dễ bị đường tà cuốn lôi Đã sanh được làm người rất quý Thường được nghe dạy, chỉ tu hiền Gần đường về Phật, về Tiên Không tu, sau khó trở nên làm người Để sanh lạc vào nơi cầm thú Không được nghe khuyên nhũ lời lành Thì không được biết tu hành Tất còn chịu kiếp tử sanh lâu dài Nạn ấy lớn hơn tai nạn khác Cũng là điều hình phạt tối cao Để cho cửa thú lọt vào Giấc mơ dài biết ngày nào tỉnh ra Giới ma quỷ cũng là đại nạn Kiếp sống như là rán là mây Tiêu tan chẳng có hẹn ngày Thường cam đói khát giận gây trong lòng Tánh oán ghét đã xong cực độ Nên thường gây đau khổ cho người Không kiêng Phật, chẳng kể Trời Khiến cho nghiệp ác càng hồi thêm cao Xưa kia có một trào vua nọ Có một ông quan võ bất lương Mỗi lần đi đến thôn hương Bắt dân làng phải nộp lương, nộp tiền Bò heo có, phải khiêng đến nạp Có gái xinh, phải dắt tới hầu Bắt dân làm việc ngựa trâu Lớp thì bị giết, bị tù thảm thương Gặp già cả, không nhường, không nể Thấy tăng sư, chẳng lễ, chẳng chào Rất là ngạo mạn, tự cao Không tin quả báo, chẳng nao tuần huờn Một hôm nọ, sau cơn yến tiệc Bổng nhiên ông thổ huyết chết đi Sanh làm ngạ quỷ tức thì Mặt mày xấu xí dị kỳ hình dung Cổ quá nhỏ, vật không nuốt chạy Bụng thì to bằng cái bụng trâu Ngày đêm đói khát buồn rầu Vất vơ chẳng có chổ nào ẩn thân Cơm vừa đút tới mồm thành lửa Nước ngậm vào miệng hóa dầu sôi Làm cho phỏng lưởi cháy môi Chịu điều đau nhức tanh hôi suốt đời Trả quả lúc làm người tiền kiếp Nhưng thường không được biết tỉnh ra Ôm lòng oán hận sâu xa Càng làm cho kiếp quỷ ma kéo dài Con ơi! Lấy chuyện này để biết Những hành tung tiền kiếp mất đâu Làm cho thiên hạ đau sầu Là gây hậu quả độc sâu cho mình Quan ấy lúc sanh binh oai khí Khi thác rồi làm quỷ đói đau Người đời thử nghĩ thế nào Có nên ham thứ hùng hào ấy không? Chỉ một lúc thỏa lòng ham hố Mà để cho đau khổ muôn đời Là điều nên nhịn con ơi Ăn quen khó nhịn, nhịn thời cũng quen Có quả báo, nên khuyên hướng thượng Không đáo đầu ai khuyến trừ tà Chết rồi tội mới thấy ra Chừng ni có hối cũng là muộn thay Chỉ sơ lược một vài nhân quả Cho người đời nhớ có trả vay Để mà uốn nắn cho ngay Ngõ hầu tránh cái hậu lai bất lành Phải sáng suốt, cứu mình bớt khổ Đừng ngu mê, tông tổ lây sầu Nếu mình tu đắc đạo mầu Tổ tiên cha mẹ cũng chầu Như Lai Trời một mặt sáng đầy thiên hạ Cầu một cây đưa cả muôn người Tu là việc lớn con ơi Cứu cha mẹ được, độ người cũng xong Trái Nguơn hạ đã hồng sắp rụng Mau chọn nơi gieo giống trường sanh Mê đời cặn bả hôi tanh Hại mình thì có, cứu mình thì không Đời chém giết vì lòng ghen ghét Đời lưu manh vì việc tham lam Có rồi mà vẩn còn ham Ham tài, ham sắc, ham làm công danh Thấy người được, còn mình không đuợc Xô đẩy nhau, bắt chước cho hơn Thường tranh cạnh việc bất nhơn Là đời hiện tại gọi tân phong trào Quá vật chất, quơ quào bất kể Quá xa hoa, tội lệ không kiêng Đua nhau cướp lợi tranh quyền Ấy là thế giới kim tiền ngày nay Con cái chẳng đoái hoài cha mẹ Vợ chồng không gìn lẻ ái ân Bội thầy, phản bạn, lừa dân Cảnh này đã diễn xa gần thiếu chi Chẳng đạo lý hơn gì chuối háp Không luân thường nào khác heo tơ Chuối không ruột chẳng ai nhờ Heo lo ăn ngũ để chờ phân thây Đạo lý chẳng khác cây thước mộc Luân thường như là chốt với đinh Thước không, nhà khó ráp thành Chốt đinh nếu thiếu thì hình rã mau Đạo lý trọng thế nào đủ biết Luân thường là cần thiết dường bao Ở đời bất luận người nào Nên gìn đạo lý, nên trau luân thường Người hơn vật biết đường đạo lý Người giá cao nhờ nghĩ luân thường Dù cho thông-thái, phú-cường Nếu không đạo lý luân thường đáng khinh Kẻ chỉ biết lo mình vinh hạnh Mặc cho ai sống cảnh khốn nàn Người đừng tưởng thế là ngoan Gặp khi tối lửa tắt đèn kêu ai Giửa nhơn loại có dây quan hệ Việc lớn cho đến bé nhờ nhau Trong đời bất cứ hạng nào Tự mình cung cấp không sao hoàn toàn Ngay như cái thân đang sống đó Được sanh ra nhờ có mẹ cha Những điều phụ thuộc khác ra Là nhờ tất cả người ta giúp vào Ơn cha mẹ làm sao chẳng nhớ Ơn mọi người há nở đành quên Dù sao cũng rán đáp đền Mới không hổ phận sanh lên làm người Được lành chớ khinh cười kẻ rách Được sang đừng kiêu cách người hèn Không nên phân biệt lạ quen Thấy ai mắc nạn nên chen giúp dùm Mình được sống thì người cùng sống Mình được vui giúp chúng đồng vui Ở ăn mật-thiết với người Sự thơm tho ấy còn mùi nào hơn Cuộc sống của thế trần hiện tại Cũng cần nên sửa cải như trên Giàu nghèo nâng đở nhau lên Bỏ đi cái lối sống riêng cho mình Ai cũng biết mở tình rộng rải Nạn dân nghèo sẻ giải-quyết xong Những điều cướp của lường công Không còn nghe thấy ở trong xóm làng Tình bác-ái người càng biết rộng Cảnh thái-bình càng chóng hiện ra Nếu tình bác-ái còn xa Thái-bình cảnh ấy cũng là còn lâu Những gì chúng đang sầu khổ nhứt Không nói ra cũng được biết rành Thiếu no ấm, thiếu hòa bình Là điều thế-giới hiện tình thiết-tha Kẻ thiện-chí nhìn qua thế sự Không khỏi lòng tư-lự đau buồn Dân sinh rối tợ chỉ cuồn Chưa xong nhơn họa, kế đường thiên-tai Mới lụt bảo chổ này chưa dứt Kế xảy ra động đất chổ kia Đói đau chết chóc chia lìa Nhơn sanh đang lúc đầm-đìa thiên-tai Nạn Trời khắp Đông Tây gieo rắc Thêm nạn người Nam Bắc hoành-hành Chổ này chưa dứt chiến-tranh Kế nghe chổ nọ khởi hành binh-đao Thảm với khổ kể sao cho hết Sống khó khăn, còn chết dể dàng Nhìn vào khắp cảnh nhơn gian Lao đao chẳng khác như thuyền gặp giông Nếu kẻ có tấm lòng bi-mẫn Không khỏi lo cầu khẩn hòa-bình Thương người như thể thương mình Không hề muốn việc đao binh khốn nàn Họa thế-giới sắp tàn mai mốt Bướm ong còn châm đốt mỗi ngày Giết nhau nếu chẳng dừng tay Sẻ làm mạng sống nhơn loài ngắn thêm Nên tha thứ, chớ hiềm thù nữa Hãy nhứt tâm, đừng ở hai lòng Giúp người, người sẻ trả công Hại nhơn, nhơn hại, chớ hòng hại ai Sự báo-ứng đời nay rất chóng Quả đã gieo sắp rụng tới nơi Trốn người chớ khó trốn Trời Chết thì chịu chớ phạm nơi tội tình Con ơi! Cảnh bình-minh thấy được Phải trải qua một cuộc tối đen Ngũ quen còn thức không quen Hồn đi theo lớp tối đen nhiều người Kẻ tỉnh được gặp trời sáng tỏ Người mê luôn theo lộ âm cung Thử ra mới biết hiền hung Không đem chọn lọc, Tiên Rồng như nhau Chưa gặp lửa, vàng thau một sắc Đốt ra rồi hai chất khác nhau Vàng thì trước cũng như sau Còn thau thì lại sắc màu đổi luôn Khi thạnh lắm, người thương kẻ mến Lúc suy, không ai đến ai thăm Dễ dàng thay đổi lương tâm Nhìn vào thế thái ngán ngầm lòng son Lúc mới mẻ thì còn hăm hở Khi củ càng chẳng ngó ngàng vào Lòng người phai lạt rất mau Tu hành như thế chừng nào cho nên Cần phải biết ơn đền, nghĩa trả Cần phải gìn chí cả lòng son Nguyện tu thì phải tu tròn Mặc dù sống chết mất còn chẳng nao Đạo cao có chí cao tương xứng Như buồm to gió lớn thổi xuôi Đường về mau chóng đến nơi Móng tay chưa nhọc là ngồi Tây Phương Gặp đạo cả, cang trường nhỏ hẹp Như ruộng to lúa lép đem gieo Nhọc công nghèo vẩn còn nghèo Tu như thế rất khó siêu Phật đài Ngọc nếu chẳng dồi mài không sáng Tu nếu không cố gắng chẳng thành Trong tâm thì được trọn lành Hốt nhiên trí-huệ nơi mình hiện ra Một khi thấy trứng gà khảy mổ Chẳng bao lâu sẻ nở gà con Mẹ gà phải ấp cho tròn Trứng kia bỏ lạnh, gà con chết liền Tăng chúng phải tham-thiền đúng cách Làm sao cho thống nhứt tinh-thần Mắt tai mũi miệng ý thân Đem về một chổ thật chân như lòng Làm thế chẳng phải trong chốc lát Mà phải gìn cho được luôn luôn Đến khi như nước trên nguồn Chảy luôn không dứt là đường đạo minh Con ơi! nhớ chắc gìn lẻ ấy Chẳng bao lâu sẻ thấy hiệu năng Nếu con nghĩ quấy, tưởng xằng Chắp tay ngồi mãi không ăn thua gì Việc thành đạo không kỳ mau chậm Mà do lòng động tịnh khiến ra Động còn thì Đạo còn xa Tịnh càng sớm được, Đạo nhà sớm thông Động còn bởi còn lòng cảm nhiễm Về sự tu còn kém quyết tâm Ma đời chúng dễ đến xâm Có hơi đường mật ruồi lằng mới bu Thiếu cương-quyết khó tu tới chốn Hay động tâm dễ cuốn theo đời Phải như hoa nỡ giữa trời Gió qua cũng mặc, cọp ngồi cũng thây Manh mối là đây rán nắm Tuy nói làm lòng chẳng xuyến xao Minh minh, bạch bạch, làu làu Soi đời mà chẳng tổn hao vì đời Lúc nào cũng như Trời lớn rộng Khắp thế gian đâu cũng trùm bao Nhưng không vướng mắc vật nào Cổ kim thường tại một màu không không Con ơi! Đạo tìm trong não-trí Chớ kiếm ngoài, chân-lý khó thông Phật, ma đều vốn tại lòng Đừng lầm tưởng ở bao đồng xa xôi Nay không gặp thì mơi sẻ gặp Cố tìm cho thấy mặt mới thôi Tâm trung nếu chẳng đổi dời Lửa từ trong cái bùi nhùi cháy ra Đạo diệu chẳng ở xa chớ ngại Thật quày đầu sẻ thấy bên chân Bước đi tới, một bước dừng Bước cho mòn gót, chẳng từng tới đâu Tự mình phải xét câu thiện ác Việc nên hư cân nhắc cho rành Nếu là những việc bất lành Thà đành chịu chết, không đành làm theo Không sợ việc đói nghèo, rách rưới Không sợ điều mất lợi, mất danh Mà là sợ nghiệp bất lành Được lòng như thế tu hành rất mau Con ơi! biết nói sao cạn lẻ Ở thế gian bày vẻ lắm trò Cách này, kiểu nọ hay ho Phần nhiều cạm bẩy phải dò mà đi Tội thường thấy, phước thì ít gặp Thiện hiếm hoi, còn ác dẩy đầy Lãng tâm chỉ một phút giây Đủ làm tội lổi, lưu đày chung thân Mới học Đạo, bước chân chưa vững Thì phải cần nắm cứng luật nghi Nói làm bất cứ chuyện gì Cũng cần lấy thước đạo nghì ra đo Lấy chơn lý làm cơ bản chính Để biện-phân lo tính không lầm Việc còn mờ ám trong tâm Chớ nên nói bướng, đừng đem làm càn Nếu không biết, thưa rằng không biết Còn biết thì cứ việc nói ra Nói năng chơn chất thật thà Ấy là bản chất của nhà chơn tu Tuyệt-đối chẳng chấp câu nhơn ngã Sự biệt phân cao hạ cũng không Với ai cũng đối một lòng Khổ thì cứu giúp, vui đồng sớt chia Lòng tự-ái thật lìa bỏ hẳn Ai hiểu lầm giận mắng không buồn Luc nào cũng nhã nhặn luôn Nhìn đời bằng mắt yêu thương nhân-từ Con ơi! Phải xử cư như thế Mới đúng theo kinh kệ truyền khai Đọc suông chử nghĩa bề ngoài Hạnh tu không giử như loài sáo kêu Kinh kệ chỉ là nêu đường xá Đọc xong rồi phải khá mau đi Hiểu thông mà cứ ngồi lỳ Kệ kinh không thể thay đi cho mình Pháp tu có hàng nghìn muôn cách Chung qui là giải-thoát mà thôi Đi thuyền đi bộ tùy người Miễn về đến chổ được rồi ớ con! Xét theo đó chìu lòn độ chúng Đèn hạ-nguơn sắp lụn nay mai Đạo mầu cần phải rộng khai Để cho đời bớt nạn tai kinh hồn Còn nhiều cuộc đất cồn chìm sụp Kế lắm hòn đảo trút đổ tan Lửa từ dưới biển cháy lan Còn thêm lửa núi khổ nàn nào hơn Bịnh thổ tả xa gần lung lạc Bịnh trái ban hình phạt đó đây Tai nàn khắp cả Đông Tây Ấy là định mạng nhân loài từ lâu Đời cặn bả thảm sầu lắm chuyện Kiếp điêu tàn biến chuyển nhiều điều Nguời càng giác-ngộ bao nhiêu Càng đau xót cảnh bọt bèo thế gian Chổ này mới vừa an-ninh được Kế chổ kia nổi cuộc rối loàn Dân thường sống cảnh lầm than Nhìn đời lòng bắt chứa chan giọt sầu Nếu người chẳng đồng cầu đạo-đức Nổi khổ kia còn chất chồng thêm Trong lòng dân chúng không êm Thì làn sóng khổ còn thêm trong đời Một người quấy xui mười kẻ quấy Lở một lần dể xảy hai lần Trước khi làm nhớ cân phân Tránh lây hại chúng, tránh phần lỗi sau Người phải biết gìn câu liêm sĩ Người đừng quên giá-trị con người Phải gìn tư-cách tốt tươi Giàu nghèo gì cũng giử đời sạch trong Cần xây-dựng chớ hòng phá hoại Rán tạo nên xã-hội ấm no Bỏ đi cái lối ngao cò Toàn dân nhất trí hẹn hò bình thanh Già trẻ được kết thành một khối Xóm làng đồng chung lối từ hòa Tất nhiên thạnh nước an nhà Ngũ không đóng cửa cũng là không lo Ấy là việc đáng cho giục thúc Dù Thần Tiên cũng chúc thành công Người nên cởi mở tấm lòng Xây nền hạnh-phúc đại-đồng mau lên Con cũng chớ nên quên việc ấy Cùng người trong tứ-hải nắm tay Phá tan xiềng-xích nhơn-loài Tâm hồn sáng-suốt, xác thân no lành Cố xây-dựng trường-thành đạo-đức Cố khêu lên ngọn đuốc từ-bi Cho ai cũng biết đạo-nghì Để không còn muốn sự chi hung sùng Sống an-lạc người không tội lỗi Thác siêu-thăng thế-giới Phật-đà Là nhờ đạo-đức khiến ra Rất mong sanh chúng Ta-Bà làm theo Trể một phút, khốn nghèo một phút Bóng âm dương vùn-vụt bay qua Nạn tai chết chóc xảy ra Trong lòng hoảng-hốt khó mà nhớ tu Phật đã biết rỏ câu sanh tử Phật đã tường tận sự luân-hồi Cho nên Phật nói cạn lời Người nên xét kỹ để hồi hướng tâm Không tin Phật, chừng lâm họa khổ Bừng tỉnh ra đã bỏ xác rồi Kế liền bị nghiệp cuốn lôi Dễ đâu nhớ được tiền đời ra sao Xưa có một người giáu tột bực Nhưng trong lòng sâu mọt nhỏ nhoi Của mình một điếu không lòi Của người chút đỉnh cũng moi móc về Bắt tôi tớ nặng nề công việc Nhưng lương tiền keo kiệt không cho Tiền bao nhiêu cũng bỏ kho Ai nghèo mặc kệ không lo giúp dùm Người giàu ấy lâm chung sau đó Liền đầu thai làm chó trong nhà Thấy ai đến cũng sủa la Ngày đêm thường sợ người ta lấy đồ Lúc nào cũng ăn dơ, ở bẩn Thường bị người đánh mắng không yên Khi đau chẳng có thuốc men Đến chừng chết chẳng ai thèm cất chôn Thế mà cũng chưa xong hết nghiệp Còn sanh lên chịu kiếp bần cùng Làm thân nô lệ tứ tung Cơm không no bụng, áo không mặc lành Bị nghèo khổ hoành hành đời sống Khiến cho lòng oán-hận đủ điều Sanh ra trộm cướp xảo điêu Làm cho nghiệp tội thêm nhiều hơn lên Nghiệp trước hiện đang đền chưa hết Đã gây thêm khổ nghiệp đời sau Nối liền như xích buộc vào Luân-hồi, sanh-tử tiếp nhau không ngừng Con ơi! Bắt dửng dưng chăng nhỉ Thấy người rồi tự nghĩ đến thân Nếu không sớm dứt hồng-trần E không tránh khỏi chuyển-luân như người Đã nhiều kiếp vào đời ra thế Biết bao lần nay chế mai tang Vẩn còn lưu lại thế-gian Nghiệp xưa đâu phải nhẹ nhàng, ớ con! Khuyên thiện-tín giử tròn mối đạo Để kỳ này trực đáo Tây Phương Không còn ở lại trần dương Chịu điều sanh tử, sáu đường mê si Lời Phật dạy chạm ghi trong dạ Tự rèn lòng cho mở tánh linh Để cho rộng biết, rộng nhìn Đâu tà, đâu chánh phân minh rỏ ràng Trong người có hào-quang sáng rực Bị mê si che khuất từ lâu Tinh-thần còn phải nhiếp thâu Mê si hết được ánh mầu sáng ra Ngồi chú niệm Di-Đà Phật Tổ Không riêng cầu tịnh-độ siêu sanh Mà còn cầu Phật giúp mình Ngọn đèn thần tuệ sớm minh trong lòng Ngày sáu khắc vẩn không quên Phật Đêm năm canh thường nhắc Di-Đà Phật trong lòng chẳng rời xa Có ngày Phật đến giúp ta vừa lòng Phải thành khẩn từ trong tim não Chớ lương khương lở đạo, lở đời Tu thì phải tu đến nơi Nguyện thì nguyện được như lời mới ưng Mèo rình chuột ngó trân không nháy Người bắn cung nhắm cái hồng tim Nhớ rằng trong lúc ngưởng chiêm Bao nhiêu ý-niệm phải im một chìu Cứ như thế mà đeo đuổi mãi Từ rặng non hiện thấy thái-dương Hốt nhiên sáng cả lối đường Trên cành chim líu, bên vườn hoa khai Được diện-mục bổn-lai chơn tánh Như ngũ mê vừa tỉnh thức ra Nhận đâu thật cảnh thật nhà Khác hơn cảnh mộng thấy qua vừa rồi Khát gặp nước, lòng người hớn-hở Đói được cơm, dạ kẻ hân-hoan Muốn tu có Phật dẩn đàng Lại càng quý giá muôn ngàn, ớ con! Dịp hiếm có, ráng bòn công-đức Gặp đạo mầu gắng sức tu theo Nghèo tiền, đạo-hạnh chớ nghèo Sẻ làm cho kiếp bọt bèo đăng Tiên Bao nhiêu nghiệp tiền-khiên cố trả Mặc dù cho nhồi quả cách nào Vẩn vui lòng chịu không nao Chỉ tu một kiếp bước vào đài sen Gió nhiều ngọn, khó nhen được lửa Vọng lắm điều, khó mở được tâm Lâu nay trong chốn thiền-lâm Tu nhiều, thành ít bởi tâm vọng nhiều Bị thị-dục réo kêu chằn-chặt Thêm ngoại trần ghẹo chọc liên miên Dễ làm tâm trí ngã nghiêng Người tu cần giử chủ quyền trong tâm Cỏi lục giới đã lâm vào đấy Lòng dục thường động đậy nhiều hơn Tâm không làm chủ lấy thân Thường hay phạm tội tà dâm dễ dàng Lấy tâm chánh dẩn đàng đời sống Theo luật kinh xử-dụng việc làm Người nào cảnh nấy được kham Đạo làm sao trái, đời làm sao hư Học tánh Phật, an-cư lạc-nghiệp Theo tâm phàm, hoại kiếp khổ thân Phàm là ngụy, Phật là chân Người nên học Phật, chớ nên học phàm Từ-bi đối Bắc Nam vẩn một Bác-ái không phân biệt màu da Xem nhau như thể một nhà Khổ là lo cứu, vui là lo chia Lúc nào cũng tràn trề tha thứ Dùng từ ngôn dạy chỉ lẩn nhau Mặt mày vui vẻ một màu Mật đường khó sánh ngọt ngào lời phân Thấy đau ốm, ân-cần thăm hỏi Thấy nạn tai phấn-khởi giúp giùm Ở ăn có thỉ có chung Ân-tình xử vẹn, hiếu-trung làm tròn Cha mẹ hiếu thì con cháu thảo Quan thanh liêm, dân bảo hiền-hòa Quan quyền với kẻ mẹ cha Há không thận-trọng việc nhà, việc dân Trước nên nhớ tu thân vẹn vẽ Sau sẻ ra xử lẽ với người Mọi bề sẻ được tốt tươi Việc nhà, việc nước, việc ngưới đều xong Nếu ai cũng dẹp lòng ích-kỹ Hành-động chi cũng nghĩ đến người Thì đâu đến nỗi hại đời Và mình cũng chẳng phạm nơi tội tình Cao quý ấy phải nhìn nhận đến Lợi ích này phải tiến-hành mau Đời người bớt nỗi khổ đau Gian phi giảm được, hùng hào bớt đi Hãy cố gắng duy-trì mỹ-tục Nên đồng-tâm hồi-phục thuần-phong Khắp nơi chợ búa ruộng đồng Gái trai cùng biết sống trong cương-thường Nền giáo-dục cần trương mở rộng Sự học-hành áp-dụng toàn dân Thị thành cho đến thôn lân Mọi người kiến-thức mở mang đồng đều Kẻ hửu-trách cần nêu gương tốt Dân nên theo luật-pháp ở ăn Cả hai vật-chất tinh-thần Người trong xã-hội cũng cần giồi-trau Bề gia-giáo, người nào cũng có Về nhân-tình, chẳng kẻ nào quên Con người giá-trị cao lên Ít còn thấy hỏng hư nền lý-luân Các việc ấy người cần cải-thiện Để bớt đi những chuyện ươn hèn Tốt lành phải ráng đua chen Đáng làm chẳng đợi ai khen mới làm Chòm xóm phải thường đàm đạo-lý Bà con cần dẩn chỉ đường lành Ấy là thường-thức nhơn sanh Người đời cần phải thật hành chớ quên Con ơi! mấy việc trên vừa kể Ai cũng là có thể làm theo Không phân giới hạn giàu nghèo Mong sao già trẻ nhớ đeo trong lòng Nếu để mắt nhìn trong xã-hội Kẻ yêu dân chẳng khỏi não-nùng Tinh-thần quần-chúng rối tung Mạnh ai nấy sống không chung tâm-hồn Nếu kêu gọi hương thôn nhất-trí Mau chỉnh tu đạo-lý con người Trau-giồi đời sống tốt tươi Người nào cũng biết thương người như thân Việc chẳng khó, chỉ cần nỗ-lực Mổi người nên mổi sức góp vào Sự chi cũng sẻ làm mau Ví dù muốn phá núi cao cho bằng Nên đoàn-kết dù rằng rất khó Chớ bỏ qua vì nó rất cần Muốn gìn giử được thôn lân Phải nhờ lực-lượng nhân dân phụ vào Người dù mạnh đến đâu đi nửa Không được lòng ủng hộ của dân Khác nào chiếc ghế lỏng chân Có ngày sụp đổ chớ không lâu dài Ai chớ có ỷ tài, ỷ sức Người cần nên có đức khiêm cung Đến khi gặp việc bí cùng Sẻ là có kẻ khác giùm giúp cho Biết nhường nhịn thơm tho đáng mấy Thói ngỗ ngang ai thấy chẳng buồn Cây cong uốn mải cũng suông Hung hăng cố sửa cải luôn cũng hiền Con ơi! Ráng tùy duyên hóa độ Dùng tiện-nghi khuyên dổ bá-gia Đạo mầu cứ phổ-truyền ra Mười người tu được đôi ba cũng mừng Từ đạo Phật trùng-hưng trở lại Nhiều tăng sư đã phải hi-sinh Phật trăm, ma quỷ gấp nghìn Lắm điều khảo-đảo tâm-tình người tu Chướng-ngại vật mặc dù đầy rẩy Không thể làm bải hoải từ tâm Nguyện ngăn lấp bể luân-trầm Khổ là thường sự, đâu làm lạ chi Đã nối gót từ bi Đức Phật Màng kể chi xác chất khổ đau Đập tan cánh cửa trần lao Là điều mong ước đã bao thuở rồi Nếu còn có một người nào khổ Còn ra tay cứu độ đến cùng Đã nguyền từ cái trung tâm Con nên nhớ đến, chớ lòng lãng quên Lời con thệ động trên Kim Lộ Chư Phật đều nghe rỏ từ lời Đừng quên nguyện ấy con ơi! Xông pha cứu vớt khách đời đang mê Làn sóng khổ tràn trề khắp chốn Người đang say cảnh mộng còn nhiều Giấc mê kia phải làm tiêu Cho người mê ấy thấy điều thật ra Phận sự đó của người Phật tử Phải hiến thân vào sự cứu đời Mỗi lần cảm-hóa một người Bao nhiêu giọt máu, mồ-hôi đổ vào Hẳn con đã trước sau hiểu rỏ Chẳng còn nao chuyện khổ đến mình Tình yêu khắp cả chúng sinh Phật đà hiễu rỏ bằng nghìn kiếp xưa Thuyền Bát-Nhã vẩn đưa đón mãi Miễn khách trần khổ hải được qua Quản chi nắng táp mưa sa Từ bi tính ấy đậm đà ở con Tuy đã biết đường còn gai góc Vẫn không ngừng bước trước gian nguy Đại hùng, đại lực, đại bi Kẻ chơn Phật tử thường ghi trong lòng Tâm hồn sánh hư không chẳng kém Tình yêu dân non biển khó so Phật cùng con đã hẹn hò Vào sanh ra tử vẩn lo cứu đời Thời Ngươn Hạ, non dời, biển đổi Buổi tàn đời, người cổi, vật thay Nhiều người không cánh mà bay Lành còn dử mất là ngày nầy đây Phong-Thần hội đông tây đại-chiến Long-Hoa trường lựa tuyển nhân từ Bây giờ ai cũng xưng sư Chừng ni đâu thật, đâu hư sẻ tường Con ơi! Ráng vạch đường xa rộng Đưa hiền nhân khỏi cổng hùm beo Quản chi những lúc nguy nghèo Bảng vàng chiếm được sáo treo đầy nhà Việc gần chẳng phải là xa xắc Chuông từ mau đánh thức chúng sanh Mau lo lánh dử làm lành Chớ nên mê lợi, mê danh, mê tình Tuy Phật có muôn nghìn phép lạ Không thể nào cứu gả hai lòng Chớ nên nay bưởi mai bồng Phải gìn tuyết sạch giá trong tâm hồn Thấy xa rộng càn-khôn vũ-trụ Nhưng mây Trời bao phủ không ly Nhân nào quả nấy đúng y Người trong hạ giới chớ khi mà lầm Nam nữ hãy hồi tâm hướng thiện Trẻ già nên tu luyện sớm chiều Bao nhiêu nghiệp chướng trừ tiêu Đường về Cực-Lạc dắt-dìu nhau đi Bỏ tất cả những gì bất chánh Quyết làm cho thấy cảnh diệu-mầu Vẩn vui vào chốn biển sâu Miễn là mò được ngọc châu đem về Cha là tướng, con hề rất thẹn Không được rồng cũng ráng kỳ lân Xưa trần nay cũng còn trần Há không tủi hổ với Thần Phật sao? Phật thương chúng khác nào con đỏ Mắt lúc nào cũng ngó đến luôn Cố làm cho hết khổ buồn Chúng sanh bỏ Phật tìm đường khác đi Ma phiền-não thầm thì đòi bửa Quỉ vô thường dòm ngó mỗi ngày Quanh mình thù địch bao vây Thế mà chưa tỉnh giấc say hồng trần Diêm-Vương đã nhiều lần cảnh-cáo Giảng kinh luôn chỉ bảo không ngừng Nhưng mà sanh chúng chẳng cần Cho nên thường bị Tử-Thần hành hung Phật trông thấy thêm lòng thương xót Đời Hạ nguơn nhiều cách hoá thân Dốc lòng cứu độ chúng dân Đưa qua khỏi bến mê tân thảm sầu Các Bồ-Tát cũng đâu ngơi nghĩ Khắp đó đây hiển-thị đạo mầu Dùng nhiều phương-tiện khác nhau Dạy cho bá-tánh những câu bí-huyền Chúng sanh quá mỏng duyên với Phật Nên cửa thiền cứ bước dang ra Thiên-đường lộ ấy càng xa Còn đàng địa-ngục ngày qua thêm gần Mến thân chẳng làm thân trường-cửu Vì thân mà hồn ngũ vạn niên Thường cam chịu kiếp đảo điên Thế mà cũng vẩn còn ghiền trần gian Nay cửa Phật mở toang ra cả Tiếng chuông lành giục giã hằng ngày Dù người có lắm mê say Cũng bừng tỉnh đến học bài quy-y Thời Mạt-pháp là kỳ Đại-Xá Luật tu hành chẳng khó như xưa Tại gia niệm Phật sớm trưa Cũng là được Phật đến đưa đón về Người sẻ có Liên-Huê đở gót Lại còn thêm lộng pháp che thân Lần này là dịp thoát trần Không tu thì chẳng còn lần nào tu Sớm giải kiếp phàm phu nhục xác Sớm được thân Bồ-Tát an nhàn Muốn tu có Phật dẩn đàng Như qua sông được có thoàn kề bên Con ơi! nhớ đem truyền lời ấy Cho người đời xét lại thử nào Tu hành là việc quý cao Chớ nên ngờ vực, hãy mau tu hành Tam qui phải tâm thành cung kính Ngũ giới nên nghiêm-chỉnh phụng-hành Thường lo niệm Phật làm lành Buổi đầu cố-gắng giử gìn bấy nhiêu Kinh kệ đọc được nhiều rộng lý Mau định tâm thì trí mau khai Lòng nên xét đến thường ngày Nếu như phạm lỗi sẻ hay biết liền Nên nghe những lời khuyên bạn tốt Thấy việc lành nên học làm theo Con đường giải-thoát cứ leo Mặc tình gai góc hùm beo của đời Không để phút nào lơi đạo-hạnh Cố tìm cho thấy tánh chơn như Phá cho tan lớp huyển-hư Chừng nào nghe tiếng Phật ừ mới thôi Đạo chẳng ở đầu môi chót lưởi Đạo tại TÂM cố bới cho ra Thiện nam, tín nữ gần xa Trong TÂM có PHẬT ráng mà tìm xem Trí phân tán cố đem kết lại Chủ tâm đừng để mãi phóng tâm Loạn tâm thì việc dễ lầm Định tâm thì việc dễ tầm hiểu ra Bị trói buộc dù là việc nhỏ Không thể nào thong thả hoàn toàn Trong lòng còn chút đeo mang Thì còn chướng ngại trên đàng siêu sanh Con ơi! Hãy bình thanh tâm trí Như nước trong lóng kỹ mươi lần Ai lay động cũng trong ngần Tức nhiên thấy mặt chủ nhân tại lòng Chỉ có thế, chớ không chi lạ Thật ra đâu nhọc nhã công lao Quên đi chạy kiếm hơ hào Của nằm trong túi, chớ nào đi đâu Con ơi! Lẽ nhiệm-mầu ráng nắm Gặp mối thì rối rắm gở ra Có trồng sẻ có nở hoa Vọng tâm hết được thì là huệ khai Kỳ xá tội là ngày mở rộng Bât luận ai tu cũng đắc thành Không thành tại chẳng trọn lành Chớ không tại Phật chẳng linh đời nầy Mau tu, chớ nên gây thêm tội Rớt xuống rồi, khó lội cho qua Nếu không bị xấu nó tha Thì là cọp bắt khó mà toàn thây Nói sự thật, không bày dối mị Tin hay không, tự ý chúng sanh Mạnh ai nấy tự tung-hoành Mạng người như thể chỉ mành treo chuông Trước mặt chẳng còn đường đi tới Sau lưng đầy lang sói chận ngăn Thân không khỏi lũ ruồi lằn Ấy là đời kẻ hung hăng hiện thời Chừng thọ nạn, tin Trời có mắt Bình thường xem mặt đất không ai Lúc nào cũng muốn dương oai Người như thế ấy đời nay rất nhiều Nếu chẳng sớm học điều lương-thiện Dễ gây ra những chuyện âu sầu Riêng mình hại chẳng nói đâu Còn làm người khác chịu sầu khổ chung Phải kiếm cách mở vòng giải-thoát Cả miếng ăn, tấm mặc thường ngày Cho đời sống bớt đọa đày Giúp cho tâm trí thảnh thơi phần nào Kẻ mẩn thế lòng đau hay chẳng? Người ưu đời có đắn đo không? Nhìn vào cảnh sống phần đông Kẻ dư bá bội, người không một tiền Nhà hửu trách ngồi yên sao nở? Nên tìm phương để gở rối dần Làm cho mực sống bình phân Có nhà cửa ở, cơm ăn, áo lành Việc ấy đáng thực hành mau chóng Giải-quyết xong đời sống nghèo nàn Tinh-thần dân được mở mang Hành-vi đê-tiện ngày càng bớt đi Dân đang muốn những gì trước hết Là TỰ-DO, là việc sống còn Ai người yêu mến nước non Giúp dân xong được là tròn quốc-gia Nên để mắt nhìn xa một chút Nếu dân nghèo thì nước yếu đi Ấy là một sự hiểm-nguy Cần mau giải-nạn hàn-vi dân tình Bỏ cái tánh lo mình béo bở Nở vắt khô máu mở đồng-bào Phải lo giúp đở lẩn nhau Chớ thừa nước đục thả câu hại người Tất cả việc tốt tươi nhân-đạo Không riêng người tôn-giáo lo làm Mà ai cũng phải gìn kham Để cho nhân-phẩm người làm thêm cao Con ơi! Kể đến bao giờ hết Những việc đang cần-thiết hằng ngày Tinh-thần vật-chất cả hai Nhu-cầu thường-thức hiện nay của người Quá đòi hỏi khiến đời tranh cạnh Quá thiếu thì sanh tánh bất lương Giử cho cảnh sống bình thường Là điều tôt nhứt trên đường sanh nhai Mỗi người phải góp tay nhau lại Tán trợ nhau những cái nhu-cầu Chớ nên chia áo rẻ bầu Phải tương nhau thể một đầu cha sanh Người hãy mắt nhìn loài mối Sức nhỏ mà đắp nỗi gò to Là nhờ nó biết chung lo Một con không thể xây gò mối cao Sức người mạnh gấp to con mối Nếu đồng tâm kết lại thành đoàn Ruộng đồng sẻ chẳng bỏ hoang Cảnh tình đói rách lang thang không còn Khi có việc quan, hôn, tang lễ Lúc ốm đau, sanh đẻ bất kỳ Sẳn lòng giúp chẳng nệ chi Người nào cũng thế, còn gì quý hơn Tạo không khí thôn lân hòa nhã Tô điểm nền văn-hóa tốt lành Ấy là hương-vị nhơn sanh Mọi người cần phải đặt mình hướng theo Nghèo tiền bạc, chớ nghèo nhân-cách Hùm để da, người thác để danh Thà nghèo được tiếng thơm lành Hơn giàu lưu lại ô danh muôn đời Biết so sánh những lời trên ấy Nghèo đến đâu, chẳng lấy của người Phải chăng là việc tốt tươi Mình đâu phạm lổi và người đâu khinh Mấy việc ấy đinh ninh chớ bỏ Mặc dù là rất khó thực-hành Con ơi! Ráng gọi nhơn sanh Thương nhau chớ có nở đành hại nhau Người đã bước chân vào cửa Phật Hoặc giả là có đọc giảng kinh Giống lành xưa đã phát sinh Cũng nên tiếp tục tu hành chớ buông Số nhơn-loại hằng muôn triệu ức Nhưng được nghe kinh Phật ít người Không duyên khó gặp con ơi! Gặp rồi lại bỏ là đời quá mê Kinh kệ vốn là chìa khóa ngục Chúng sanh là kẻ nhốt trong tù Xem kinh mà chẳng chịu tu Như chìa khóa có mà tù không ra Trai lạt mặc dù là khó nuốt Giới răn tuy là việc khó gìn Đó là phương-pháp vãng sinh Nên gìn giử trọn chớ quên ngày nào Trai giới ấy, hàng rào ngăn tội Người tu hành cần phải giử mình Chừng nào toàn giác, toàn minh Tự nhiên trai giới trong mình có luôn Đạo chớ tưởng là đường dễ gặp Kinh khởi tâm muốn đọc khó thay Có người đọc sách liền tay Nhưng không hề đọc một bài kệ kinh Kinh kệ thấy lòng mình muốn đọc Đã có duyên với Phật xưa rồi Dịp này nếu để cho trôi Sẻ là khó kiếm dịp hồi thiện-tâm Trước dù đã có làm tội lỗi Nay thật lòng cải-hối ăn-năn Tội kia liền được tiêu tan Như là rừng củi lửa săng châm vào Việc thành đạt lâu mau tại chí Cương-quyết hay là chỉ lưng chừng Dù không tu ở tiền thân Mà nay cương-quyết tu cần cũng nên Người năm trước đất quên không cấy Nhưng năm nay ruộng lại mở to Tấtlà được lúa đầy kho Kẻ làm năm trước đem so kém gì Lấy đây để xét suy tất biết Người tu đừng phân biệt trước sau Tu lâu mà chẳng chùi lau Đâu bằng kẻ mới bước vào siêng năng Thỏ tự ỷ mau chân nằm ngũ Đâu bằng rùa lụ khụ bò đi Niệm lia chỉ được một thì Thua người mổi bửa nhớ trì ít câu Sự bền chí là đầu câu chuyện Không nhẫn-kiên tu-luyện khó thành Có hành hay chẳng chịu hành Chớ đừng chấp lấy cái danh bề ngoài Cố đi mãi, đường dài rút ngắn Còn nghĩ luôn, lộ cận hóa xa Nên hư bởi tại mình ra Chớ nên đổ lổi rằng là tại ai Phải biết nhận điều này làm trước Để tăng cao thêm sự tự tin Tự mình lo cứu độ mình Đừng lòng nhu-nhược cứ xin nơi người Muốn giải-thoát khỏi nơi khổ hải Cần hy-sinh nhiều cái khó làm Nếu mình không tự lo kham Bước đường giải-thoát lam nham bất thành Mình biết rỏ lòng mình hơn hết Vọng còn sanh hay diệt, mình tường Án tòa trong bụng tự trương Tự mình trừng-trị bất lương lòng mình Nếu được có tự tin đầy đủ Thêm giàu lòng tự chủ hoàn toàn Lòng mình mình tự trị an Khỏi đưa đến kẻ thế-gian trị mình Lúc nào cũng công minh trong dạ Xử mình không một lẻ vị tư Bao nhiêu tật xấu thói hư Sẻ lần tiêu tán cũng như bọt bèo Niệm Phật tức mau siêu cỏi Phật Tham thiền thì chắc được nhập thiền Muốn chi cũng được thỏa nguyền Là nhờ tự trị công minh trong lòng Đức tín ấy gìn xong mỗi bửa Cỏi hồng-trần có thuở thoát-ly Tu hành khỏi tốn công chi Đạo mầu chỉ một khắc kỳ thành công Vạn sự được hay không tại chí Khi tìm ra chân-lý được rồi Quyết tâm cho được mới thôi Dù cho lở đất long trời chớ nao Con ơi! chớ lãng xao bổn phận Vẹt chông gai đưa dẩn người đời Muốn người tu đến chốn nơi Tìm phương nhắc rỏ những lời Phật trao Tuy biển khổ ào ào sóng dậy Bát-nhã thoàn cứ chạy sấn lên Đưa người bến-giác kề bên Để xa mủi đạn lằn tên tử-thần Con còn nhớ tiền-thân nhiều lúc Trên đường dài nhường nước, nhường cơm Lại còn nhường nệm, nhường rơm Nhường luôn cả ngựa đở chơn cho người Yêu nhơn-loại từ đời Thượng-cổ Giúp chúng sanh từ thuở xưa lâu Chớ nào phải mới đây đâu Từ bi tình ấy tình sâu chẳng mòn Nếu sanh chúng vẩn còn nạn ách Thì còn ra mượn xác phàm trần Xông pha giửa bến mê tân Để mà cứu thế đang cơn nguy nàn Cây thiền trượng đánh tan quái ngại Nước ma-ha rửa bụi hồng trần Thế-gian ai cũng Phật Thần Đất Ta-Bà hóa vàng ròng như xưa Cửa Phật nhớ sớm trưa mở rộng Chuông lành đừng quên dộng ngày đêm Cho tình bác-ái tăng thêm Cho lòng thù ghét dịu mềm lại đi Hại nhau đến chung qui chết cả Giúp nhau thì lưỡng ngã đồng sinh Nếu người thật sự thông minh Sẻ là chọn cái hòa bình làm hơn Tan tành chỉ một cơn giận dử Nếu người không khéo xử cho hòa Chẳng lo gần, cũng lo xa Để cho trứng mỏng khỏi va vào tường Đồng kêu gọi tình thương nhân-loại Dẹp bỏ đi cái lối phân lìa Nhiều nơi máu chảy đầm đìa Cũng y hẹp lượng và chia rẻ lòng Mạng sống tợ chuông đồng chỉ mảnh Vui ít hơn là cảnh khổ buồn Là đời của khách hạ nguơn Há không tìm cách bảo ồn lấy nhau Giải-thoát kiếp trần lao là một Giải-thoát đời áp bức là hai Chẳng lo xong mấy lẻ này Nhơn sanh không thể hưởng ngày tự do Việc ấy phải làm cho thành tựu Mới là xong nhiệm-vụ con người Khóc than đổi lại vui cười Lòng muôn người chỉ hướng nơi hòa-bình Ai cũng muốn đồng tình chia sớt Không ai mong dùa hốt của ai Coi nhau như thể chơn tay Bắc Nam no ấm, Đông Tây an nhàn Tội đã chẳng đeo mang trong dạ Đường siêu-thăng hối hả băng qua Mau như áo mặc cổi ra Chúng sanh giờ trước, Phật-đà giờ sau Người đời kiếng màu che mắt Không nhận ra được sắc trời trong Thường lầm vật có nói không Kiếng màu vừa lột vừa trông rỏ liền Phật sẳn có nơi miền Hạ-giới Quày đầu thì đã tới bên chân Tại mình nửa buớc nửa dừng Mới là có chuyện Phật gần hóa xa Con ơi đã nhắc qua lắm đoạn Siêu đọa do mình chẳng do ai Muốn cho gặp Phật Như-Lai Giửa mình cùng Phật chớ hai tấm lòng Phật đang ngó mình không nháy mắt Mình cũng nhìn Đức Phật trân tân Hai đàng hòa một tinh-thần Tức mình với Phật được gần nhau luôn Để ngoại vật làm cuồng tâm-trí Trước Phật mà lòng nghĩ nơi đâu Dù ngồi cho đến bao lâu Cũng không thể thấy Phật đầu hào-quang Muốn được thấy mình vàng hực-hở Khi tham-thiền đừng có phóng tâm Trong lòng càng lặng càng thâm Mình vàng càng thấy lần lần hiện ra Các ma nghiệp đang xa bổn-thể Các nhiễm-ô sạch sẻ trong lòng Bổng nhiên thấy nhẹ như không Cỏi nào muốn đến tùy lòng tự do Con ơi! Nhớ nhắc cho người biết Rán tu như các việc kể trên Tây Phương Cực-Lạc được lên Sẻ cùng chư Phật ngồi trên Liên-Đài Mình được vượt ra ngoài sanh tử Thì mẹ cha cũng khỏi luân-hồi Muốn đền chử Hiếu cho rồi Tu cho thành đạo cứu đời mẹ cha Dù mỏi mệt cũng là gắng gổ Gặp khó khăn cũng chớ nản lòng Quyết tâm bồi đức lập công Đường về tịnh-độ lòng không đổi dời Đạo thường gặp người đời khiêu nhữ Làm lành hay gặp dử đối đầu Gốc kiên-nhẫn nếu không sâu Gió đời thổi ngã bất câu lúc nào Lòng mộ đạo mặc dầu đã có Không kiên-tâm thì khó thành-công Kiên ngoài còn phải kiên trong Mới là chinh-phục được lòng trần-gian Đường đi tới Tây-phương rất khó Nhiều yêu-tinh đón ngõ ngăn đàng Muốn làm chúng nó chạy tan Có lòng Bồ-Tát, có gan anh-hùng Thắng trần-tục thung dung muôn thuở Thua phàm tình khổ sở vô-biên Cho nên những kẻ tu hiền Không nên nhu-nhược, phải nên cang-cường Đời dù có mật đường cách mấy Cũng thản-nhiên, chớ dấy tay vào Đừng chìu theo tánh khát khao Thì là mới khỏi rơi vào lưới chông Con còn nhớ một Ông sư nọ Từ sau khi từ bỏ thê-nhi Xuất-gia đầu Phật quy-y Suốt đời trai lạt, tu-trì thiền-môn Được lối xóm tiếng đồn sư thiện Ông cũng lo tu luyện hằng ngày Một hôm thời-tiết đổi thay Ông liền phát bịnh mấy ngày nằm luôn Ông lại thấy hơi buồn trong dạ MIệng thèm ăn thịt cá vô cùng Làm cho rạo-rực trong lòng Đêm không ngủ được suốt trong mấy ngày Kẻ lối xóm vảng lai thăm viếng Ông liền đem chuyện ấy kể ra Một người trong số đàn-na Làm thinh lén trở về nhà trước đi Liền hôm nọ thừa khi vắng khách Người ấy mang một xách đồ ăn Nào là chả gỏi gà măng Nào là thịt nướng, cá chưng nực nồng Khiến Ông bắt thêm lòng thèm khát Đồng thời người ấy đốt lên thêm Rằng là ’’ trong lúc ban đêm Không ai hay biết chớ hềm ngại chi Sư cứ việc ăn đi chắc mạnh Nếu không dùng bịnh chẳng lành đâu” Ông còn ngần-ngại hồi lâu Sau rồi Ông lại gật đầu liền ăn Trai lạt mấy mươi năm gìn giử Chỉ một cơn thách-thử tan tành Bịnh Ông không những chẳng lành Ít hôm sau đó bịnh tình nặng hơn Kế Ông thấy tâm-thần tán loạn Niệm Di-Đà cũng chẳng nhớ rành Hôn mê cho đến bỏ mình Đầu thai trở lại gia-đình hàng heo Từ nhỏ đến lớn theo nghề ấy Lành xưa không nhớ lại chút nào Cứ gây tội lỗi chuyền lao Bị giây oan-nghiệt dẩn đầu thai luôn Chịu lắm kiếp vào cuồng ra dại Gặp nhiều đời chết hãi sống kinh Càng ngày mờ-ám chơn linh Lòng không còn biết tưởng tin đạo mầu Con ơi! Chớ quên câu chuyện ấy Tu gần thành mà hoại có thường Nhà sư ấy miệng rau tương Nhưng trong lòng vẩn còn vương mùi trần Mùi trần ấy chỉ dằn, chỉ nhẩn Nhưng Ông không diệt hẳn nó đi Nên khi xác yếu thần suy Lòng còn thèm muốn những gì hiện ra Trong lòng lúc ấy thắng qua nó được Tất nhiên là Phật rước đi ngay Còn nghe theo nó khiến sai Thì đành chịu kiếp đọa đày khó ra Trai lạt chẳng phải là ngoài miệng Phải trai lạt cho đến trong lòng Tu đâu phải lạt trai không Mà còn giới-luật và lòng từ-bi Tất cả những hành-vi đạo-đức Từ đáy lòng thành-thật làm ra Dù nơi không có người ta Cũng không để thói vạy tà phát sanh Cuối cùng vẩn trọn lành trọn sáng Gần lâm chung chẳng tán-loạn tâm Di-Đà vẩn nhớ niệm thầm Linh hồn không bị dẩn lầm đường đi Lành mạnh cũng như khi bịnh hoạn Bình tỉnh không hốt hoảng tinh-thần Từ trong TÂM đến ngoài THÂN Việc nào cũng được xét phân rỏ ràng Nếu tất cả trong lòng thiện-tín Giữ được lòng bình-tĩnh như trên Cỏi nào mình muốn siêu lên Tức là sẻ được toại-nguyền chẳng không Tuy dễ đuợc mà không phải dễ Vì phần đông những kẻ lâm chung Thường hay mê sãng trong lòng Ít ai tĩnh đến khi hồn lìa thân Biết sắp chết, tâm trần chưa bỏ Vừa tiếc thương, vừa sợ hoảng lên Càng thêm buộc cái oan-khiên Nên càng sớm trở lại miền trần-gian Gần dứt thở, vững-vàng trong trí Giủ sạch, không nhớ nghĩ sự đời Chỉ còn lòng nhớ Phật thôi Tức thời có Phật đến nơi rước về Lòng đại-độ tràn trề khắp chốn Sức thần-thông rộng lớn vô biên Chúng sanh vừa dứt phát nguyền Thì là có Phật đến liền rất nhanh Trong nháy mắt siêu-sanh tịnh-độ Khỏi phải cần hành khổ dụng công Ấy là giủ sạch bụi hồng Trước giây phút trút linh-hồn ra đi Phát tâm Phật thì quy cỏi Phật Phát tâm phàm thì rớt cỏi phàm Phật, Phàm do chổ phát TÂM Tâm nào cỏi ấy, không lầm một ai Chúng sanh muốn sớm ngày giải-thoát Thì phải nên sớm phát Phật Tâm Trồng lâu thì rể ăn thâm Đời dù lay lắc khó làm tróc nghiêng Biết lo trước là yên vững nhứt Để muộn rồi chạy chọt uổng công Trong khi muốn lội qua sông Những đồ mang gánh lòng thòng bỏ đi Cỏi tạm lại gặp kỳ tận thế Càng làm cho tàn-phế mau hơn Người đời nếu chẳng tu nhơn Sẻ chôn theo cuộc tẩy trần nay mai Chúng sanh khó tránh ngày đại biến Trời Đất không khỏi chuyện đổi dời Muôn năm sụp đổ nhứt thời Giấc mê chưa tỉnh là người vô duyên Đời nếu được bình yên thật sự Ai cũng đều hưởng thọ trường sanh Trọn vui, trọn sáng, trọn lành Phật đâu gọi việc tu hành làm chi Đời lại chẳng có gì thật cả Xác thân còn tan rả bùn lầy Huống chi các việc bên ngoài Cũng là giả nốt có ai giử còn Tuổi sống cứ ngày mòn lụn mãi Còn ốm đau, tai họa nọ kia Ghét thương, được mất, hợp lìa Khổ cho đến chết chưa hề xong chi Thế mà chẳng mấy khi nghĩ tới Còn tạo ra nhiều chuyện khổ thêm Trên đời rối mãi không êm Giửa người thường có thù hiềm nhau luôn Khiến cho kiếp vô thường càng khổ Cũng làm cho mạng số ngắn thêm Hết ngày rồi lại kế đêm Sống chờ quỷ sứ đến thềm bắt đi Bị hành hạ còn gì hơn nửa Chịu đọa đày không số đo lường Thế mà nghiệp ác còn vương Bao giờ ra khỏi con đường trầm-luân Cỏi Phật chẳng tử-thần léo-hánh Thật hoàn-toàn một cảnh an vui Sao người chẳng chịu đến lui Cứ đeo cỏi tạm đầy mùi khổ lao Lo giải cho mau kẻo trể Chậm ngày nào uổng phế ngày ni Ngày giờ qua nó mất đi Tuổi không chờ đợi, chớ trì huởn tâm Giải-thoát kiếp trược phàm sớm được Sớm khỏi vòng trói buộc hồng-trần Hoàn toàn vô quái-ngại thân Muốn đi tự tại, muốn dừng tự do Hết bị việc đói no làm rộn Không còn lo ăn, bận gây phiền Vô thường chúng quỷ đều kiêng Vô thường khoái lạc, vô biên thọ trường Việc trước hết là đường giải-thoát Giải-thoát xong, phàm xác nhẹ nhàng Mặc dù ở cỏi thế gian Mà không bị sự buộc ràng trần ai Dù quả đất đổi thay cách mấy Mình cũng không động đậy chút nào Hoàn toàn vượt khỏi trần lao Nhiệm-mầu trên sức hùng-hào thế-gian Chúng sanh cũng nên sang cảnh ấy Để tự mình chủ lấy đời mình Lúc nào cũng được quang minh Không còn bị lớp trần tình phủ che Tiếng phàm tục tai nghe không nhiễm Sắc hồng-trần không chiếm được lòng Đi đâu cũng được thong dong Ở đâu cũng được tùy lòng tự do Chúng sanh hãy toan lo mau chóng Mới kịp kỳ thế mỏng đời tàn Đừng chờ đến tiếng nổ vang Mới lo tránh né muộn màng lắm thay Kể sao hết đắng cay sự thế Nay thân yêu, mai kế ghét chê Một bầu ác khí nặng nề Của đời vật-chất đang nê trong lòng Con ơi! Để mắt trông thì biết Cỏi thế-gian giả thiệt ngần nào Thiệt là chỉ ở sắc màu Còn trong cốt-tủy thì nào thiệt chi Thân đã giả, còn chi là thiệt Tâm không thành, mọi việc bất thành Giả tâm rồi lại giả danh Cả hai đều giả, tan tành rất mau Toàn là cảnh chiêm bao mơ-mộng Người vẩn cho cảnh sống bình thường Kể sao hết việc đáng thương Của người say gục trong trường lợi danh Chưa phá được vách thành mê hoặc Tất còn mang khổ-ách thế-gian Bị giây oan-nghiệt buộc ràng Thì là thế-giới thanh-nhàn còn xa Chúng sanh cứ dần dà chưa quyết Không khỏi làm uổng mất một đời Lần này nếu để cho rơi Chìm luôn chớ khó mong trồi đầu lên Kỳ thi chót muốn nên phải gắng Chuyến đò chiều không xuống huốt đi Chúng sanh ái-ngại những gì Lời khuyên của Phật vân-vi chưa làm Tuy thế-giới bao hàm rộng rải Vẫn nằm trong cái máy thiên-cơ Chuyển lay trong một phút giờ Chúng sanh như cá đem hơ trên lò Tai trời đã khiến cho vạn khổ Ách nước thêm họa có kém chi Bên nào cũng đủ cánh vi Một cơn cắn mổ còn gì lá lông Làm chết dễ, khó mong làm sống Nếu còn mang cái đống thịt phàm Đừng vì cung phụng lòng tham Gây ra những cảnh khốn nàn cho ai Sanh mạng của nhân loài nên trọng Người sống như mình sống khác chi Cùng nhau chia sớt an-nguy Không gì một lý do gì hại nhau Giải-thoát cảnh khổ lao trước hết Giải-thoát thân sống chết buộc ràng Tạo ra Cực-Lạc thế-gian Cho ai cũng có sen vàng đở chân Việc ấy rất nên cần lo liệu Hơn xô nhau ra chịu khổ hình Phật là tất cả chúng sinh Chúng sinh có sức tạo bình hay nguy Muốn làm Phật có chi là khó Bỏ tánh phàm tức trở nên ngay Trên đời bất luận là ai Tu hành chẳng lựa có tài hay không Chúng sanh cũng nên đồng ra sức Xây dựng lên cỏi Phật tại trần Hòa-bình hạnh-phúc trường xuân Mọi người sáng-suốt hiền-nhân một chìu Há bao nở tìm điều giết hại Khiến đời thành cái bải tha ma Đâu bằng cùng biết thứ tha Tạo nên không khí ôn-hòa vui tươi Việc báu quí, con ơi đã rỏ Nhớ đem khuyên tất cả Tây Đông Biết thân cá chậu chim lồng Mau lo giải-thoát cho xong cảnh trần Chớ đợi lúc Sóng Thần nổi dậy Mới ta tay quát cạy không rồi Nên lo tránh trước người ơi! Thời nay dễ chết hơn thời xưa kia Bỏ được tánh phân chia sát hại Bỏ được lòng ngược đải thù hằn Người nào cũng được thiền năng Cỏi đời tươi sáng như trăng trong Trời Đường đạo-đức một lời thệ hải Chử Từ-Bi trọn chí sơn minh Lời khuyên của Phật đồng gìn Tiêu tan cảnh tượng hãi kinh trong đời Lòng người tịnh, tức thời thế tịnh Lòng người an thì cảnh đời an Đến như địa ngục, thiên đàng Cũng do lòng ở thế-gian tạo thành Há không chọn đường lành để bước Tạo dử chi cho kiếp đọa đày Mê man hồn phách, xác thây Lúc nào cũng ở trong tay Tử thần Lời chót hết, Phật cần nhắc lại Cảnh hồng trần sớm giải-thoát ra Chớ nên chểnh-mảng dần dà Sẻ không kịp Hội Long-Hoa kỳ này Lời vừa dứt hương bay ngào ngạt Mình nhẹ bưng như trút hồi nào Cảm ơn Đức Phật dường bao Khiến lòng đây bắt nghẹn ngào nhỏ sa Mượn bút mực kể ra từng đoạn Cho gần xa hiểu đặng lời vàng Ngõ hầu tỉnh giấc mê man Chạy ra khỏi cái nhà đang cháy bừng Có đọc đến xin đừng bỏ lảng Hãy xét suy mỗi đoạn trong này Ráng tìm cho được mối dây Để mà cởi mở kiếp này cho ra. Hết Tóm lược nội dung của quyển ĐƯỜNG GIẢI-THOÁT Ông Thanh Sĩ thuật lại lời dạy của Đức Phật về - Đời khổ lao giả tạm và tiên tri về cuộc tận thế Hội Long Hoa - Nguồn cội của sự Khổ. Mê và Luân Hồi. Nghiệp do tư-tưởng Ý nghiệp và Tác động củ Luật Nhân Quả. - Hiệu năng của Đức tin. Hậu quả của việc không minh lý. Hiểu sai. Hiểu lầm. Làm sai mà tưởng đúng. Phạm tội mà không hay biết. - Các Pháp Niệm Phật. Tịnh Thiền. Tứ Ân. Luân thường đạo-lý. Giới luật. Trai lạt. Niệm Phật khi lâm chung. - Hạnh tu hành và nhập thế. Tư-tưởng xã-hội. Hòa bình. Hạnh phúc. Tự do và cơm áo. LƯỢC SỬ ÔNG THANH SĨ Đúc kết qua tài liệu phổ biến nội bộ của Ông Thiện Tâm tại Định Hòa 1998 và của Ông Lâm ngọc ThạchMaryland. Ông Thanh Sĩ, tộc danh là Trần duy Nhứt, đạo hiệu Thanh Sĩ, sanh năm Mậu Thìn 1928 tại Ấp Phú Thạnh, làng Phú Long, huyện Châu Thành, tỉnh Sađéc, Nam Việt Nam. Thân phụ Ông là Chế văn Hương, nguyên là Hương xã làng Phú Long, là một gia-đình khá giả. Thân mẫu là bà Trần thị Mười, người có đức độ hiền-hòa, hay thương kẻ cơ hàn, bịnh tật. Là một đệ-tử Phật Giáo Hòa-Hảo đắc đạo, Ông Thanh Sĩ xuất hiện hoằng-pháp từ 1948 sau khi Đức Huỳnh Giáo-Chủ bị CSVN mưu hại tại Rạch Đốc Vàng vào mùa Đông năm 1947 đến 1955 tại miền Tây Nam Việt. PHẦN ĐỜI Thân phụ của Ông Thanh Sĩ có 2 đời vợ và Bà Trần thị Mười là vợ đời sau. Vì có chuyện bất hòa nên thân Mẫu của Ông Thanh Sĩ phải ra riêng để tự tìm sinh kế. Hằng ngày bà thân mẫu của Ông Thanh Sĩ phải bơi chiếc xuồng con dọc theo rạch buôn bán trầu cau để lo sự sống cho gia-đình. Thế nên Ông Thanh Sĩ chỉ học đến nửa năm Lớp Ba thì phải nghĩ học để lo trông chừng nhà, giử em trai Trần duy Nhì lo cơm nước, giặt giủ áo quần Đến năm 1942, Ông Thanh Sĩ xin phép mẹ để cùng người bạn tên Nguyễn văn Tư đến học chử Hán với Thầy Câu Tường, người cùng xã. Trong vòng 2 tháng, Ông Thanh Sĩ học hết quyển “Tam Tự Kinh” và đến thiên thứ tư của quyển “Minh Tâm Bửu Giám”. PHẦN ĐẠO Ông Thanh Sĩ quy y PGHH vào ngày rằm tháng 7 năm Quí Mùi 1943 theo thủ tục quy y tại gia, sau khi đọc được quyển “Giác Mê Tâm Kệ”, tức quyển kinh thứ 4 trong Bộ Kinh Giảng của Đức Huỳnh Giáo Chủ. Từ độ ấy, Ông tinh-tấn tu thân hành đạo và chép kinh giảng của Đức Thầy để gởi cho các nơi chưa có. Đến năm 1944 17 tuổi, đang sinh-hoạt bình thường, bổng nhiên bị bịnh phổi càng lúc càng nặng mặc dù hai người bạn thân là Ông Chế văn Lạc và Nguyễn văn Tư tận tình lo chạy chửa thuốc men. Trong thời gian lâm trọng bịnh, Ông Thanh Sĩ có viết bài “Khải Tấu Cáo Hoàng Thiên” để trình bày thân phận hẩm hiu và tỏ quyết tâm quy y Phật Pháp, suốt đời tự giác, giác tha. Khoảng tháng tư, năm Mậu Tý 1948, các Ông Lâm đồng Thanh, Phan bá Cầm, Huỳnh hửu Phỉ hướng dẩn Ông Thanh Sĩ đến diện-kiến Đức Ông tại Văn Phòng liên tỉnh Hưng Nhơn. Tại đây các vị ấy trình với Đức Ông để xin cho Ông Thanh Sĩ đi thuyết giảng giáo-lý khắp nơi để nhắc nhở mọi người lo tu thân hành đạo đúng theo giáo-lý của Đức Thầy và được sự chấp thuận của Đức Ông. Thế là Ông Thanh Sĩ bắt đầu trên đường châu thuyết vào ngày 16 tháng Tư năm Mậu Tý 1948 với sự bảo trợ của các ông Tỉnh bộ Châu Đốc. Buổi thuyết-trình giáo-lý đầu tiên tại nhà ông Hội-Đồng Thái ở xã Phú Lâm. Mỗi thời thuyết-giảng của Ông Thanh-Sĩ gồm có 2 phần tản văn văn xuôi ở đoạn đầu và vận văn văn vần ở đoạn sau. Ông Thanh Sĩ ứng khẩu thuyết giảng tùy theo cơ duyên và tâm niệm của thính giả. CÁC TRỞ NGẠI TRONG THỜI GIAN HOẰNG-PHÁP Cuộc châu thuyết của Ông Thanh Sĩ diễn ra khắp 50 địa điểm từ chùa Dòng Thành Long Sơn, rồi cù lao Long Khánh và điểm chót là Bến Thành thuyết giảng tại dinh Quan Thứ-Trưởng. Đi đến đâu cũng được các giới trí-thức, đồng bào và đồng đạo ca ngợi. Phần đông người trong Đạo rất cảm mến vì lời giảng của Ông đã tác động mạnh vào tâm lý, khiến cho họ vừa thương tiếc Đức Thầy và vừa lo tinh tấn tu hành. Nhưng khi Ông Thanh Sĩ về đến CầnThơ thì Ông Năm Trần văn Soái mời về hành dinh cho biết”Tướng Rờ Đông Redon Pháp bảo tôi phải quản thúc cậu ở đây”. Và Ông Thanh Sĩ trở về Mỹ Hội Đông sau 3 tháng quản thúc tại Dinh của Ông Trần văn Soái. Từ năm 1948 về sau lại xảy ra tình trạng sứ quân địa phương và tư tưởng độc quyền lãnh đạo khối tín đồ PGHH. Người thật tâm muốn bảo vệ nền Đạo Phật cũng có mà người ích-kỹ, vì danh vì lợi cũng có rất nhiều. Và kết quả là có người về Tổ Đình Hòa Hảo trình với Đức Ông rằng họ lo sợ Ông Thanh Sĩ ra mối Đạo khác rồi dẩn dắt tín-dồ tu sai đường lối Giáo-lý của Đức Thầy. Tiếp đến là dưới chế-độ của Tổng Thống Ngô Đình Diệm, các Ban Trị Sự PGHH bị giải tán, VNDCXH Đảng bị cấm hoạt-động, Tổng Bí-thư Phan Bá Cầm bị đày đi Côn đảo, quân-đội PGHH bị giải tán, các lảnh tụ quân-sự nhu Ông Lê quang Vinh bị tử hình, Ông Trần văn Soái bị biệt giam tại Đà Lạt Lại còn thêm trở ngại khác nửa là do chánh sách triệt tiêu PGHH của Cộng Sản ViệtNam. Sau ngày Đức Thầy thọ nạn, chức sắc và tín đồ PGHH chậm chân trốn chạy thì bị bắt giết rồi chôn tập thể hay cột chùm thả trôi sông. Cộng Sản lại tuyên truyền ngược lại là Hòa Hảo sát hại Cộng Sản Việt Minh. Tình trạng nhà tan cửa nát, đói no ấm lạnh, lo bảo toàn sự sống, còn đâu thì giờ để tâm tu hành tinh tấn. Ông Thanh Sĩ đã phải đi khắp nơi, trải bao gian lao khổ cực, kiên nhẫn tìm mọi cách thuyết-phục đồng đạo giử vững niềm tin, nhớ đến lời dạy của Đức Thầy và tiếp tục tu hành theo lời Thầy dạy. Tuy nhiên, qua cái nhìn của Cộng Sản, việc khuyến tu củ Ông Thanh Sĩ chỉ là chống đối nguy hiểm, là phản động hàng đầu cần phải triệt hạ sớm và lẻ dĩ nhiên Ông Thanh Sĩ là mục tiêu mà Cộng Sản phải triệt hạ bằng mọi giá. CUỘC ĐÔNG DU Có lẻ Ông Thanh Sĩ đã thấy được thời cuộc sẻ xảy đến, thế nên Rằm Tháng Giêng năm Ất Mùi 1955 Ông đi Saigon xin giấy phép xuất ngoại với lý do là Du Học và Nghiên Cứu Giáo-Lý Phật-Giáovì lúc đó Trụ Sở Phật Giáo Quốc Tế đặt tại Nhật và đúng một tháng sau Ông Thanh Sĩ lên máy bay đi Nhật Bản. Sau 4 năm học, Ông Thanh Sĩ tốt-nghiệp Cử Nhân và được mời dạy ở Viện Đại-Học Waseda. Trong những năm đầu Ông dạy Lịch Sử, Giáo-Lý Phật-Giáo và Triết-Học. Qua năm kế, Viện Waseda yêu-cầu Ông Thanh Sĩ dạy thêm cá môn Xã-hội Học, Kinh-Tế Học và Ngôn-Ngữ Học. Trong những năm sau cùng, Ông Thanh Sĩ không còn cho sinh-viên nữa mà chỉ dạy cho trên 5,000 giáo-sư của Viện Đạ-Học và còn dạy thêm bên Ngôn-ngữ Học Quốc-Tế. Trong thời gian ở Nhật Bản, Ông Thanh Sĩ đã viết được 17 tác-phẩm, mặc dù rất bận việc học và dạy học. Những tác-phẩm này toàn bằng vận văn, nhiều thể thơ khác nhau, được in chung lại một bộ dầy khoảng 1,300 trang với tựa đề “HIỂN ĐẠO”, mang tựa đề như sau LỜI VÀNG TRONG MỘNG, VẠN NIÊN HUYNH ĐỆ, RẰM THÁNG MƯỜI, ĐÂU LÀ PHÀM THÁNH, TIẾNG NÓI TRONG HOA SEN, HỞI QUÊ NHÀ, ĐÃ CHẾT MÀ SỐNG, TÔI CÒN ĐÂY MÀ, TÔI KHÔNG QUÊN, ÁNH SÁNG TỪ BI, ĐƯỜNG GIẢI-THOÁT, THẦN CƠ THẬT LUẬN, CON THUYỀN ĐẠI ĐẠO, ĐỜI MẠT PHÁP, LÀ PHẬT TỬ, TÌNH ĐẠO PHẬT, ĐẾN LIÊN HOA. Ông Thanh Sĩ còn 3 tác-phẩm khác nửa, liệt-kê theo thứ tự thời gian như sau Quyển Châu Thuyết viết tại Mỹ Hội Đông và Long Kiến trong thời kỳ 1950-1951. Quyển Kết Tập các Bài Thuyết pháp ứng khẩu tại Long Kiến và Tây An Cổ Tự tức là quyển HỌC PHẬT TU NHÂN. Quyển Kết Tập những bài thuyết pháp ứng khẩu trong năm Quý Tỵ 1954 tại Tây An Cổ Tự vào những ngày sóc vọng và Đại lễ. Nội dung kêu gọi tu hành, nhớ ơn Thầy và thường kết thúc bằng một bài phật pháp chỉ dạy phương pháp hành đạo. Trong thời gian tại Nhật Bản, Ông Thanh Sĩ còn viết trên 630 lá thư gởi về quê hương để trả lời cho các lá thư của đồng đạo khắp nơi hỏi thăm Ông liên quan đến việc tu học, thông tin về hoạt-động và đời sống của Ông. Những lá thư này được sưu tập lại và in thành hai quyển với tựa đề LÁ THƯ ĐÔNG KINH I và II. Trong một lá thư từ Đông Kinh, Ông Thanh Sĩ có cho biết không có sự cách biệt nào giửa Ông và quí vị lãnh đạo tôn giáo thế giới. Ông Thanh Sĩ thường viếng thăm Ủy Hội Phật Giáo Thế-giới, trụ sở chính tại Đông Kinh, để thảo luận với các vị lãnh đạo làm việc tại đây. Ông Thanh Sĩ được mời tham dự tại các Đại Hội Phật Giáo QuốcTế. Có một lần Đại Hội Phật-Giáo Thế-Giới năm 1966 có trình ra một bản cổ kinh chử Phạn Sankrit chưa được dịch và luận nghĩa rỏ ràng để tìm người đứng ra lảnh trách nhiệm. Đến ngày chót mà cũng vẩn chưa thấy quốc gia nào giới thiệu được ai. Ông Đại-sứ Việt Nam là Ông Đoàn bá Cang liền lên tiếng “Ông Thanh Sĩ là một cư-sỉ Phật-Giáo Hòa Hảo tại miền Nam Việt Nam có thể đọc và giảng bài kinh ấy.” và đại hội mời Ông Thanh Sĩ đứng lên cho tất cả biết mặt. Thượng Tọa Thích Tâm Châu, trưởng phái đoàn Phật-giáo Việt Nam, nửa mừng, nửa lo, bước lại gần hỏi nhỏ Ông Thanh Sĩ” Ông thấy có thể được không?” Ông Thanh Sĩ trả lời “Tôi cố gắng, chắc có thể được”. Dù bớt lo nhưng vẩn cảm thấy hồi hộp. Đây là lời Thượng Tọa thuật lại với anh Đổ thiện An, sỉ quan PGHH trong Nha Tuyên Úy PG. Ông Thanh Sĩ lên diễn đàn giửa tiếng hoan hô nồng-nhiệt của Đại Hội. Ông đọc bản cổ kinh Phạn ngữ, ứng khẩu dịch ra Nhật ngữ, tiếp theo có người thông dịch sang Anh Ngữ và Ông giảng nghĩa lưu-loát từng đoạn với ngôn ngữ rất giản dị. Nhiều vị học-giả Nhật, Anh, Ấn, Tích Lan, Thái Lan có đến chào mừng và khen ngợi Ông. Khi trở về Việt Nam, Thượng Tọa Thích Tâm Châu vẩn không ngớt lời tán-thán Ông Thanh Sĩ như sau “Huỳnh Giáo chủ PGHH có một đệ tử vô cùng xứng đáng. Ông Thanh Sĩ đã làm vẻ vang cho PGHH nói riêng và PGVN nói chung.” Người gởi Minh Tâm - Sep. 2004
CHƯƠNG 13 VUI MỪNG TRONG CHÚA CON-cái của Đức Chúa Trời được gọi để làm đại — diện cho Đấng Christ, để bày-tỏ sự nhân-từ và ân-điển của Chúa. Đức Chúa Jêsus đã bày-tỏ bản chất thật của Đức Chúa Trời thế nào, chúng ta cũng bày-tỏ Ngài cho thế-gian chưa hề biết đến lòng bác-ái của Ngài thế ấy. “Như Cha đã sai Con trong thế -gian,” Đức Chúa Jêsus khấn, “thì Con cũng sai họ trong thế-gian.” “Con ở trong họ và Cha ở trong Con ... để cho thế — gian biết chính Cha đã sai Con đến.” Giăng 1718, 23. Sứ-đồ Phao-lô ngỏ lời với môn-đồ Đấng Christ rằng “Rõ thật anh em là bức thư của Đấng Christ”, “mọi người đều biết và đều đọc.” 2 Cô-rinh-tô 33, 2. Mỗi tín-đồ là một bức thư mà Chúa Jêsus đã gởi cho thế-gian. Nếu bạn là môn đồ Đấng Christ, Ngài dùng bạn làm bức thư cho gia-đình, cho khu phố, xóm, làng, là nơi bạn sinh-sống. Đức Chúa Jêsus ngự trong bạn muốn nhủ vào lòng những người chưa biết đến Ngài. Có lẽ họ không đọc Kinh- Thánh, hoặc không nghe tiếng phán từ những trang sách ấy thốt ra, họ không thấy lòng bác-ái của Đức Chúa Trời qua công việc của Ngài làm; nhưng nếu bạn là người đại-diện thật cho Ngài, có thể nhờ bạn mà họ biết được một phần nào sự nhân-từ của Chúa, họ sẽ được chinh-phục về mối bác-ái và hầu việc Ngài. CDG Cơ-đôc-đồ chẳng khác nào ngọn đèn sáng trên con đường về trời. Họ phải phản-chiếu cho thế- gian ánh sáng từ Đức Chúa Jêsus đã chiếu-giọi trên họ. Đời sống và bản-tánh của họ phải thế nào để những người khác có thể nhận-định đúng Đấng Christ và công-việc của Ngài. CDG Nếu chúng ta đại-diện Đấng Christ, chúng ta phải làm cho mọi người thấy hầu việc Chúa là một điều thích-thú như sự thật vốn là thế. Những tín-đồ nào tích-lũy những mối u-sầu bi-thảm trong tâm-hồn, hay lẩm-bẩm phiền-trách, tức làm cho thế-gian quan-niệm sai-lầm về Đấng Christ và đời sống tín — giáo vậy. Họ làm cho người khác có cái ấn — tượng là Đức Chúa Trời không muốn thấy con-cái Ngài được vui-vẻ, mà làm thế tức họ làm chứng nghịch lại Cha của chúng ta ở trên trời rồi. CDG Sa-tan rất vui-mừng khi thấy nó xúi-giục được con-cái Đức Chúa Trời không tin-tưởng nơi Ngài, lại nghi-ngờ thiện-ý của Chúa và quyền-năng cứu- chuộc chúng ta. Nó rất thích làm cho ta cảm-thấy rằng Đức Chúa Trời đã sắp-đặt sẵn để làm hại chúng ta. Công-việc làm của Sa-tan là cố chỉ cho ta thấy Đức Chúa Trời thiếu lượng khoan-dung và thương-xót. Nó giải sai sự thật về Đức Chúa Trời. Nó trám đầy tư — tưởng con người với những ý- niệm sai-lầm về Đức Chúa Trời, rồi thay vì giữ vững chơn-lý về Thiên-Phụ, chúng ta lại thường khi đeo-đuổi theo lời giải sai của Sa-tan để bất- kính Đức Chúa Trời bằng cách không tin-cậy Ngài và lẩm-bẩm nghịch cùng Ngài. Sa-tan bao giờ cũng tìm cách làm cho cuộc đời tin-kính thành đen-tối. Nó muốn làm cho tôn-giáo có vẻ nặng — nề, khó- khăn; và khi qua sự bất-tín, Cơ-đốc-đồ mang lấy khía-cạnh nầy của tôn-giáo trong chính cuộc đời mình, người đã ủng-hộ Sa-tan vậy. CDG Có nhiều người đi trên con đường sống mà mắt chỉ chăm nhìn vào những lỗi-lầm, những thất bại cùng thất-vọng, nên lòng họ chứa đầy buồn-rầu và chán-ngán. Trong khi tôi còn ở bên Âu-châu, tôi biết một người chị trong Chúa mắc phải việc nầy. Chị gặp phải sự chán-nản lớn và viết thư cho tôi, nhờ tôi giúp-đỡ chị. Sau khi đọc thư chị, đêm ấy tôi nằm chiêm bao thấy mình đang ở trong một cánh vườn. Có một người dường như là chủ vườn dắt tôi đi dạo quanh các con đường tuyệt xinh. Trong khi tôi đang hái hoa và say — sưa với mùi hương thơm ngát của những đóa hoa ấy, thì người chị nầy, đi bên cạnh tôi, chỉ cho tôi thấy những bụi gai không đẹp mắt tí nào đang cản lối đi của chị. Chị buồn-rầu than-thở. Chị không theo người hướng-đạo để đi trên con đường nhưng đi trên đống chà-chuôm gai-gốc. Chị than lên “Một khu vườn đẹp-đẽ như thế nầy lại bị gai-gốc làm hư đi, thật không đáng tiếc lắm sao?” Người dẫn đường đáp lại “Cứ để yên gai gốc đó đi vì chúng chỉ gây thương-tích cho cô thôi. Hãy ngắt những đóa hoa hường, hoa huệ và lạc-dương kia kìa.” CDG Trong kinh-nghiệm đời sống cúa bạn há chẳng có những điểm chói sáng hay sao? Há bạn đã không từng hướng qua những giây phút tim nhảy rộn- ràng với niềm vui khi nhận lấy ảnh — hưởng của Đức Thánh-Linh sao? Khi nhìn lại những chương sách của cuộc đời mình, bạn không tìm thấy những trang thỏa lòng sao? Có phải lời hứa của Đức Chúa Trời như ngàn hoa thơm ngát mọc hai bên đường của bạn chăng? Bạn há không để mọi nét mỹ-miều và hương thơm ngào — ngạt tràn đây lòng mình sao? CDG Gai-gốc và chà-chuôm chỉ gây nên thương- tích và làm bạn khốn-khổ. Nếu bạn chỉ đi góp nhặt những thứ nầy dâng tặng cho người khác, bạn chẳng những xem thường lòng nhân-từ của Đức Chúa Trời, bạn còn ngăn chận những người ở quanh bạn đi vào con đường sống vậy. CDG Nếu đem mọi kỷ-niệm bi-thương của cuộc đời như sự sa-ngã và thất-vọng — rồi nhắc-nhờ, than-khóc mãi cho đến khi bạn hoàn-toàn ngã lòng, tức không phải là một hành-động khôn-ngoan. Một tâm-hồn chán-nản chứa đầy u-ám, chẳng những nó không tiếp-nhận ánh sáng của Đức Chúa Trời mà còn phủ bóng trên con đường kẻ khác nữa. CDG Hãy tạ ơn Đức Chúa Trời về những hình-ảnh tươi-sáng mà Ngài đã ban cho chúng ta. Chúng ta hãy kết-hợp lại những lời hứa quí báu về lòng bác- ái cúa Đức Chúa Trời, luôn luôn ghi nhớ rằng Con của Đức Chúa Trời đã lìa ngôi báu của Cha Ngài, mặc nhân-tính vào thần-tính của Ngài để có thể cứu-chuộc con người khỏi quyền lực của Sa- tan; Ngài đắc-thắng cho chúng ta, mở cửa trời cho loài người, cùng bày-tỏ cho họ thấy nơi Chúa biểu-lộ sự vinh-hiển của Ngài; việc con người sa- ngả được kéo ra khỏi hố sâu chết mất mà tội-lỗi đã xô đẩy họ xuống, rồi đưa họ về mối giao-thông mật-thiết với Đức Chúa Trời đời-đời, chịu nổi cuộc thử-thách nhờ đức-tin nơi Đấng Cứu — Thế, mặc lấy sự công-bình của Đấng Christ rồi sẽ được đưa lên tận ngôi báu của Ngài — mọi việc ấy là những hình -ảnh mà Đức Chúa Trời muốn chúng ta chiêm-ngưỡng vậy. CDG Mỗi khi chúng ta có vẻ như là nghi-ngờ lòng bác-ái của Đức Chúa Trời,không còn tin-tưởng nơi lời hứa Ngài, tức chúng ta bất-kính Ngài và làm buồn Đức Thánh-Linh. Bà mẹ nghĩ thế nào nếu con mình cứ than-trách mình hoài dường như mình không đối-xử với chúng cách tử-tế, trong khi cả đời mình chỉ cố-gắng lo cho quyền-lợi của chúng và làm cho chúng có đủ mọi sự tiện-nghi? Nếu chúng nghi-ngờ lòng thương của bà, điều đó làm tấm lòng bà đau-đớn biết chừng nào. Những bậc phụ-huynh có con-cái đối-xử với mình như vậy, nghĩ thế nào? Như vậy Thiên-Phụ của chúng ta sẽ đối với chúng ta ra sao khi chúng ta không tin — cậy lòng bác-ái của Ngài mà chính lòng bác-ái ấy đã thúc- đẩy Ngài ban Con độc-sanh chết thay để chúng ta được sống? Sứ-đồ Phao-lô viết “Ngài không tiếc chính Con mình, nhưng vì chúng ta hết thảy mà phó Con ấy cho, thì Ngài há cũng chẳng sẽ ban mọi sự luôn với Con ấy cho chúng ta sao? Rô-ma 832. Tuy vậy đã có biết bao nhiêu người qua hành- động, nếu không qua lời nói, thốt lên rằng “Chúa đâu phải làm điều nầy cho tôi. Có lẽ Ngài thương- yêu kẻ khác chớ không thương-yêu tôi đâu.” CDG Mọi điều nầy thật làm hại linh — hồn bạn, vì mọi lời nghi-ngờ bạn thốt ra tức mời sự cám-dỗ của Sa-tan đến; nó càng tăng-cường ý ngờ-vực của bạn, làm buồn thiên-sứ được phái xuống giúp-đỡ bạn. Khi Sa-tan cám-dỗ bạn, chớ hé ra một lời nghi-ngờ ảm-đạm nào cả. Nếu thuận lòng theo sự xuối-dục của nó, trí bạn sẽ chứa đầy ý bất-mãn và phản-nghịch. Nếu bộc-lộ cảm — tình của mình ra, mọi mối nghi-ngờ mà bạn bày — tỏ không những phản — ứng lại cho bạn thôi đâu, nó còn như hột giống sẽ nẩy mầm và sanh trái trong cuộc đời của những người khác, mà lúc bấy giờ bạn không thể nào chận đứng ảnh-hưởng của lời nói mình được. Chính mình bạn có thể thoát được những sự cám- dỗ và cạm-bẫy của Sa — tan, nhưng những người khác đã bị ảnh-hưởng của bạn làm lung-lạc có thể không thoát nổi sự bất-tín mà bạn gây ra trước đó. Nếu những lời nói của ta chỉ làm tăng thêm năng- lực thiêng-liêng và sự sống thì quí biết bao. CDG Thiên-sứ đang lắng tai để nghe bạn thuật lại cho thế — gian như thế nào về Đức Chúa Jêsus trong khi đàm-luận, hay nói về Đấng đã sống lại và hiện đang cầu thay cho bạn trước mặt Cha Ngài. Khi bắt tay người bạn thân, môi miệng và lòng bạn hãy ngợi — khen Đức Chúa Trời. Điều này sẽ làm cho người bạn ấy suy-nghĩ đến Đấng Christ. CDG Ai nấy đều chịu sự thử-thách, gặp những nỗi đắng-cay khó mang, bị cám-dỗ khó chống-cự nổi. Họ đã đủ khổ rồi, đừng đem những nỗi khó-khăn của mình kể cho người khác làm gì, nhưng hãy đem mọi sự trình lên cho Chúa trong lời cầu- nguyện. Bạn hãy tự đặt một định-luật là không bao giờ thốt ra một lời nghi — hoặc hay thối-chí. Bạn có thể góp công rất nhiều để tô — điểm đời sống những kẻ khác thêm phần trong — sáng, trợ lực mọi cố-gắng của họ bằng lời nói đầy hy vọng và vui tươi của bạn. CDG Có biết bao linh-hồn can-đảm đang bị cám-dỗ điêu-linh sắp qui-hàng trong cuộc tranh-đấu chống bản-ngã và quyền-lực của điều ác. Đừng làm nản- lòng con người giao-tranh cam-go như vậy. Hãy dùng những lời can-đảm đầy hy-vọng để làm người phấn-khởi và mạnh tiến trên con đường người phải đi. Sự sáng của Đấng Christ chói lòa từ bạn là thế đó. “Chẳng có người nào trong chúng ta vì chính mình mà sống.” Rô-ma 147. Bởi ảnh-hưởng âm- thầm của chúng ta mà người khác được khích-lệ thêm sức hoặc họ bị nản — lòng mà lìa bỏ Đấng Christ và chân-lý. CDG Nhiều người có những ý-tưởng quái-gở về đời sống và bản-tánh của Đấng Christ. Họ nghĩ rằng Chúa là Đấng lạnh — nhạt, không tình-cảm, cay- nghiệt, khắc-khổ. Trong nhiều trường-hợp, trọn kinh — nghiệm tín-giáo bị tô lên bởi những hình- ảnh đen tôi nầy. CDG Người ta thường nói Chúa khóc chớ không hề biết cười là gì. Đấng Cứu-Thế của chúng ta thật là Người Buồn — khổ, thường bị đau-đớn vì Ngài mở lòng Ngài để nhận lấy mọi sự rủa-sả của nhân- loại, Nhưng dầu đời sống của Ngài đầy hy-sinh, phủ đầy đau-đớn, lo-âu mà tinh-thần không bao giờ nao-sờn. Diện mạo của Ngài không hề mang vẻ buồn-đau bi-lụy, nhưng đầy vẻ thanh-thản nhẹ- nhàng. Lòng Ngài là một mạch sống tuôn tràn. Bất-cứ nơi nào Ngài đến, Ngài đều mang theo với Ngài sự ngơi-nghỉ, thanh-tịnh và niềm vui chan-hòa. CDG Đấng Cứu-Thế của chúng ta thật nghiêm-trang, nhiệt-thành nhưng không hề rầu-rĩ, sầu-muộn. Kẻ nào học-đòi theo Chúa thì cuộc đời của họ mang đầy mục-đích thiết-tha. Họ sẽ có một nhận — thức thấu-đáo về trách-nhiệm cá-nhân. Họ không còn khinh-xuất, không ồn-ào hư-không, không đùa-cợt thô-tục. Tôn-giáo của Đấng Christ ban ra như dòng sông bình-tịnh xuôi — dòng. Nó không dập tắt ánh sáng vui-mừng, không hạn-chế sự vui-vẻ, không che khuất nụ cười rực-rỡ như ánh-dương. Đấng Christ đến không phải để cho người ta phụng-sự mình nhưng để phục — vụ loài người. Khi tình yêu của Ngài đã ngự-trị tâm — hồn, chúng ta liền noi theo gương Chúa. CDG Nếu chúng ta cố giữ trong tâm-trí mình những hành — động bất-chánh, thô-bỉ của kẻ khác, chúng ta sẽ thấy rằng mình không thể nào yêu-mến họ cũng như Đấng Christ yêu chúng ta. Ngược lại nếu chúng ta cứ nghĩ đến tình yêu và lòng thương xót diệu-kỳ của Đấng-Christ đối với chúng ta, chính tinh-thần ấy cũng từ chúng ta tuôn-tràn qua cho kẻ khác. Chúng ta phải yêu thương và kính-trọng lẫn nhau. Đừng cố giữ lỗi-lầm và sự bất-toàn mà chúng ta không thể không nhìn thấy. Phải trau-dồi đức khiêm-nhường, giữ lấy mình và đối-xử dịu- dàng, kiên-nhẫn với lỗi-lầm của kẻ khác. Hành- động như thế sẽ giết chết tánh ích-kỷ hẹp — hòi nhưng làm cho ta trờ nên quảng — đại bao-dung. CDG Tác-giả Thi-thiên có nói “Hãy tin — cậy Đức Giê-hô-va, và làm điều lành; khá ở trong xứ và nuôi mình bằng sự thành-tín Ngài.” Thi-thiên 373. “Hãy tin-cậy Đức Giê-hô-va”. Mỗi ngày đều có những gánh nặng, lo-âu, phiền-não của nó đè nặng trên mỗi người, thế mà khi gặp nhau chúng ta lại sẵn- sàng để thốt ra những nỗi khó-khăn và thử-thách của mình cho người khác nghe. Ta thường để sự lo-lắng vu-vơ, sợ-hãi không căn-cứ đè nặng trên tâm-hồn và lộ hẳn ra nét mặt đến người ngoài nghĩ rằng chúng ta không hề có một Đấng Cứu — Thế đầy thương-xót, sẵn-sàng nghe những lời thỉnh- nguyện và cứu-giúp chúng ta trong khi cần đến. CDG Nhiều người cứ sống trong sợ-hãi, lo-lắng vu- vơ như vậy mãi. Mỗi ngày đều có ân-tứ từ lòng bác- ái của Đức Chúa Trời bao quanh; mỗi ngày họ thụ- hưởng phước-hạnh dư — dật của Ngài, nhưng họ không nhìn thấy ân-phước ấy. Tâm-trí họ chỉ ghi sâu vào những gì không tốt-đẹp mà họ e rằng sẽ xảy ra cho họ, hoặc những khó-khăn có thể xảy ra thật sự nhưng quá nhỏ, rồi họ phóng-đại ra đến nỗi làm cho cặp mắt của họ thành đui-tối trước những sự việc lớn-lao mà họ cần biết ơn. Những khó- khăn họ gặp phải, đáng lý nên đem khai-trình cho Chúa là nguồn cứu-trợ duy-nhứt, lại làm họ xa cách Chúa vì hoài-nghi và thán-oán. CDG Chúng ta có thể nào bất-tín đến mực ấy chăng? Tại sao chúng ta phải bội-nghĩa và vong-ân đến thế? Đức Chúa Jêsus là Bạn thiết của chúng ta. Cả thiên-đàng đều chăm-lo đến sự an-lạc của chúng ta. Chúng ta không nên để những lo-toan, bối-rối của cuộc sống hằng ngày làm mệt trí, làm mờ ý chúng ta. Nếu cứ lo-âu, lúc nào cũng sẽ có những điều làm chúng ta lo-âu mãi. Không nên đeo — đuổi những gì làm cho ta hao-mòn trí — lực mà không giúp ta chịu-đựng nổi thử-thách. CDG Bạn có thể lo-lắng trong công-việc làm ăn; tương-lai của bạn có thể càng ngày càng mù-mịt hơn bạn có thể bị lỗ-lã, nhưng đừng thối chí; hãy giao mọi sự lo toan cho Đức Chúa Trời, cứ bình-tĩnh, vui-vẻ luôn. Hãy cầu xin Chúa ban cho sự khôn-ngoan để lèo-lái mọi chuyện riêng mình cách khéo-léo hầu tránh được lỗ — lã tai — ương. Hãy cố hết sức mình để cải-thiện tình-thế. CDG Chúa hứa sẽ trợ lực, nhưng bạn vẫn phải làm bổn-phận bạn. Khi trông-cậy vào Đấng cứu- trợ của chúng ta và bạn đã làm hết sức mình rồi, hãy tiếp-nhận kết-quả cách vui-mừng. CDG Đức Chúa Trời không có ý-định cho con-cái Ngài mang nặng gánh lo-âu. Ngài không hề lừa- dối chúng ta bao giờ, Chúa không phán như vầy “Đừng sợ-hãi vì sẽ chẳng có điều nguy-hiểm nào trên bước đường của con cả.” Ngài biết sẽ có nhiều thử-thách cam-go và đã nói thẳng cho chúng ta biết, Ngài không đề-nghị giải-pháp đem con-cái Ngài ra khỏi thế-gian tội-ác nầy, nhưng Ngài chỉ cho họ một nơi nương-tựa vững-chắc. Ngài cầu-nguyện cho các môn-đồ như vậy “Con chẳng cầu Cha cất họ khỏi thế — gian, nhưng xin cha gìn-giữ họ cho khỏi điều-ác.” Chúa lại cảnh-cáo các môn-đồ Ngài rằng “Các con sẽ còn sự hoạn-nạn trong thế-gian nhưng hãy cứ vững lòng, ta đã thắng thế-gian rồi” Giăng 1715; 1633. CDG Trong bài giảng trên núi, Chúa dạy các môn- đồ Ngài những bài học quí-báu trên vấn-đề cần phải trông-cậy nơi Đức Chúa Trời. Những bài học nầy cốt để nung chí con-cái của Đức Chúa Trời qua các thời-đại, mãi đến thời-đại của chúng ta vẫn còn đầy-đủ ý-nghĩa của lời giáo-huấn và an- ủi. Đấng Cứu-Thế chỉ cho các môn-đồ Ngài nhìn vào muôn chim của từng không đang trổi tiếng chúc-tôn vui-mừng, không hề bận tâm lo-nghĩ, vì “chúng nó chẳng có gieo, chẳng gặt” mà Chúa Cha vẫn lo cho chúng đầy-đủ sự cần dùng. Đấng Cứu- Thế hỏi lại các môn-đồ “Các con há chẳng phải là quí-trọng hơn loài chim sao?” Ma-thi-ơ 626. CDG Đấng chăm — gìn loài người và thú — vật sè tay Ngài ra và cung-cấp mọi sự cho loài thọ-tạo của Ngài. Chim trời cũng được Chúa để ý đến. Ngài không đặt thức-ăn vào mỏ chúng, nhưng Ngài lo sẵn để khi cần, chúng liền được no lòng. Chúng phải góp — nhặt các loại hột mà Chúa đã rãi ra. Chúng tìm lấy vật-liệu để làm ổ. Chúng phải nuôi con. Nhưng chúng đi ra làm việc với giọng hót lánh-lót vì “Cha các con ở trên trời nuôi chúng.” “Các con há chẳng phải là quí — trọng hơn chúng sao?” Bạn có hơn chúng không ở mặt thông-minh? Trong việc thờ — phượng thiêng — liêng, bạn không quí-trọng hơn chim trời sao? Nếu chúng ta tin- cậy Ngài là Đấng dựng nên cơ-thể chúng ta theo hình-ảnh Ngài và bảo-tồn sự sống chúng ta, lại chẳng cung-cấp đủ mọi nhu-cầu cho chúng ta sao? CDG Chúa chỉ cho các môn-đồ ngắm xem ngàn hoa tươi — thắm trong đồng nội, với nét đẹp đơn-sơ nhưng rực-rỡ mà Đức Chúa Cha đã ban cho chúng để bày-tỏ tình yêu của Ngài đối với nhân-loại. Chúa dạy “Hãy ngắm xem những hoa huệ ngoài đồng mọc lên như thế nào.” Nét đẹp-đẽ giản-dị tự- nhiên của bông hoa vượt quá sự rực-rỡ sạng-trọng của vua Sa-lô-môn. vẻ hào — nháng mà kỹ-thuật tinh-vi nhờ mỹ-thuật tạo ra không thể nào sánh được với vẻ đẹp mỹ-miều óng-ánh của loài hoa do Chúa tạo nên. Chúa hỏi rằng “Hỡi kẻ ít đức-tin, loài cỏ ngoài đồng là giống nay còn sống, mai bỏ vào lò, Đức Chúa Trời còn cho nó mặc đẹp thế ấy thay, huống chi là các con.” Ma-thi-ơ 628,30. Nếu Đức Chúa Trời, bậc nghệ-sĩ thánh ban cho loài hoa sớm-nở-tối-tàn những màu-sắc biến đổi tế-nhị như thế thì Ngài càng chăm-sóc loài Ngài dựng nên theo hình-thể Ngài chu-đáo hơn biết chừng nào? Chúa dùng bài học nầy để khiển-trách những kẻ quá lo-âu, bối-rối, nghi-ngờ và thiếu đức-tin. CDG Chúa muốn con trai con gái của Ngài thảy đều vui-vẻ, bình-an và vâng-lời Ngài, Đức Chúa Jêsus phán “Ta để sự bình-an lại cho các con, Ta ban sự bình-an cho các con, Ta cho các con sự bình an chẳng phảỉ như thế-gian cho. Lòng các con chớ hề bối-rối và đừng sợ-hãi.” “Ta nói cùng các con những điều đó, hầu cho sự vui-mừng của Ta ở trong các con, và sự vui-mừng các con được trọn- vẹn.” Giăng 1427; 1511. CDG Hạnh — phúc rút-tỉa từ những động-lực tư-kỷ tức vượt ra ngoài con đường bổn-phận, thật mong- manh, mơ — hồ và tạm — bợ thay. Hạnh-phúc ấy thoảng qua rồi mất biến, lưu lại tâm-hồn một sự cô-độc buồn-đau. Trái lại trong sự hầu việc Đức Chúa Trời có đầy đủ niềm vui. Người Cơ-đôc-đồ không hề cảm-thấy bị bỏ rơi để bước đi trên con đường bấp-bênh một mình, không bị bỏ quên trong hối-tiếc, vô-ích và ngã lòng. Dầu chúng ta không hưởng được những lạc-thú ở đời nầy, chúng ta vẫn sung-sướng trông-chờ cuộc sống tương-lai vậy. CDG Tuy vậy, ngay trong hạ-giới nầy, người tín-đồ vẫn có được niềm vui thông-công với Đấng Christ, họ vẫn có thể hưởng được sự sáng của lòng bác-ái Ngài, được an-ủi ấm-áp bởi sự hiện-diện của Ngài. Mỗi bước đường ta đi trong cuộc đời càng đưa ta đến gần Đức Chúa Jêsus hơn, càng cho ta một kinh-nghiệm sâu-xa hơn về tình yêu của Ngài, và càng đưa ta một bước gần đến chốn ngơi nghỉ phước-hạnh và bình-an hơn. Vì vậy không nên bỏ mất lòng tin — tưởng mình, nhưng phải giữ chắc hơn bao giờ cả. “Đức Giê-hô-va đã cứu-giúp chúng ta bây giờ”, cũng sẽ cứu — giúp chúng ta cho đến cuối-cùng. 1 Sa-mu-ên 712. Hãy nhìn đến những kỷ-niệm đời-đời, ôn lại những gì Chúa đã làm để an-ủi, để cứu chúng ta thoát khỏi bàn tay của kẻ tiêu-diệt. Hãy nhớ mãi sự thương-xót êm-ái mà Đức Chúa Trời đã bày-tỏ cho chúng ta,— những giọt lệ Chúa đã lau ráo, những đau-đớn Ngài đã thoa-dịu, những bồn-chồn đã giải-thoát, những nỗi hãi-hùng biến-mất, mọi nhu-cầu được đầy-đủ, mọi phước-hạnh Chúa ban cho, — mọi điều ấy đã làm cho chúng ta thêm mạnh-mẽ, để đương đầu với những gì sẽ xảy đến cho chúng ta trên bước đường trần-thế còn lại mà mình phải đi cho trọn. CDG Chúng ta hãy nhìn đến những bối-rối mới trong cuộc giao-tranh sẽ tới. Nhưng chúng ta cũng có thể nhìn lại những gì đã xảy ra ở quá-khứ như nhìn đến tương-lai và nói; “Đức Giê-hô-va đã cứu giúp chúng ta đến bây giờ”, “Đời con lâu bấy nhiêu, sức mạnh con lâu bấy nhiêu”. Phục-truyền Luật-lệ Ký 3325. Sự thử-thách sẽ không vượt quá sức-lực mà Chúa đã ban cho để chúng ta chịu- đựng. Vì vậy, ta hãy bắt tay vào công — việc ngay từ chỗ Chúa đặt chúng ta vào, tin chắc rằng dầu việc gì sẽ xảy ra, Chúa sẽ ban cho chúng ta sức- mạnh tương-đương với cam-go mình phải chịu. CDG Rồi đây cửa trời sẽ mở rộng để tiếp-đón con- cái Đức Chúa Trời. Từ miệng vì Vua vinh — hiển sẽ tỏa ra lời ngọt dịu như tiếng nhạc êm-đềm rằng “Hỡi các con được Cha Ta ban phước, hãy đến mà nhận lấy nước thiên-đàng đã sắm-sẵn cho các con từ khi dựng nên trời đất. Ma-thi-ơ 2534. CDG Bây giờ kẻ được cứu-chuộc sẽ được nghinh tiếp vào những ngôi nhà mà Đức Chúa Jêsus sắm- sẵn cho họ. Bạn hữu của họ không phải là những kẻ gian — ác ở đời — những kẻ dối-trá, thờ hình- tượng ô-uế và bất-tín — nhưng họ sẽ bầu-bạn với những người đã thắng Sa-tan nhờ ân-điển của Đức Chúa Trời, và đã tạo được đức-tánh hoàn-toàn. Mọi khuynh-hướng tội-lỗi, mọi sự bất-toàn làm cho họ đau-đớn ở đời nầy đều đã được tẩy sạch bởi huyết của Đấng Christ. Họ sẽ được ban cho sự tuyệt-hảo rực-rỡ của vinh-hiển Ngài vượt quá sự sáng của mặt trời. Rồi tinh-thần đẹp-đẽ, bản- tánh toàn-vẹn của Ngài từ họ chói lòa vượt quá sự rực-rỡ bên ngoài. Ở trước ngôi trắng-tinh của Đức Chúa Trời, họ không còn một dấu-vết tội- lỗỉ, đồng chia phần thánh-khiết và đặc — ân của thiên-binh. CDG Ngắm xem tài-sản vinh-hiển rực-rỡ mà mình có thể nhận-lãnh được, thì “người lấy chi mà đổi linh- hồn lại?” Ma-thi-ơ 1626. Người có thể rất nghèo — khó nhưng lại vô-cùng giàu-có với phẩm- hạnh mà thế-gian không thể nào hiến cho họ được. Tâm-hồn được cứu-chuộc và tẩy sạch tội-lỗi với mọi năng — lực cao-quí đã hiến-dâng để hầu việc Chúa, thật quí — báu không ước — lượng nổi. Cả thiên-cung trước mặt Đức Chúa Trời và các thiên- sứ thánh đều tỏa kín một niềm vui được diễn-đạt qua những khúc hát khải-hoàn thánh-khiết. CDG
đường giải thoát 1