HỒ XUÂN HƯƠNG, NHÀ THƠ TRÀO PHÚNG Trước kia Xuân Hương thường bị giai cặp phong kiến thống trị coi là người đàn bà lăng loàn, đĩ thõa. Họ căm ghét Xuân Hương, bởi vì Xuân Hương dám nói những điều bọn mũ cao áo dài không dám nói đến. Đó mới là một phần, Một phần nữa điều này họ không dám nói ra Thơ » Việt Nam » Nguyễn » Hồ Xuân Hương » Thơ truyền tụng ☆☆☆☆☆ 3 5.00. Thể thơ: Thất ngôn bát cú Thời kỳ: Nguyễn 2 người thích: , Từ khoá: trăng (220) thơ trào phúng (173) Chia sẻ trên Facebook; Trả lời; In bài thơ; Một số bài cùng từ khoá - Đánh đu (Hồ Xuân Hương) Đôi đường nét về Hồ Xuân Hương - bà chúa thơ Nôm. Trong nền văn uống học tập nước ta nói chung và văn uống học tập trung đại đất nước hình chữ S thích hợp, Hồ Xuân Hương là 1 trong những bên thơ tiêu biểu vượt trội, đã "làm sửng sốt cả đương thời lẫn Thơ » Việt Nam » Nguyễn » Hồ Xuân Hương » Thơ truyền tụng ☆ ☆ ☆ ☆ ☆ 4 5.00 Thể thơ: Thất ngôn bát cú Thời kỳ: Nguyễn 3 người thích : tiemlong , vusinger , ma vương Từ khoá: thơ trào phúng (173) thơ tục (17) Hồ Xuân Hương, quyết liệt hơn, đã đem cả những phương tiện, chất liệu và tinh thần của văn hóa phồn thực vào văn học, giải phóng văn học khỏi xu hướng khắc dục. Đây là một phương diện quan trọng của tình thần phục hưng trong thơ Hồ Xuân Hương. Bản thân việc Da nó xù xì múi nó dày. Quân tử có ‡ thương thì đóng cọc, ‡ Xin đừng mân mó ‡ nhựa ra tay. - Bản Xuân Hương thi sao. Vịnh quả mít. ‡ Của tôi như quả mít trên cây, Da nó xù xì múi nó dày. Quân tử có yêu ‡ thì đóng cọc, ‡ Xin đừng mân mó ‡ nhựa ra tay. Trong lịch sử văn học Việt Nam, Hồ Xuân Hương là một hiện tượng hết sức độc đáo: nhà thơ phụ nữ viết về phụ nữ, trào phúng mà trữ tình, đậm đà chất văn học dân gian, từ đề tài, cảm hứng, đến ngôn ngữ, hình tượng. 1.Vài nét về cuộc đời và sáng tác của Hồ Xuân Hương. 1.1 Hồ Xuân Hương - cuộc đời và giai thoại. 1.2 Thơ Nôm trào phúng Hồ Xuân Hương - thành công xuất sắc. 2. Nét đặc sắc nghệ thuật trào phúng thơ Nôm Hồ Xuân Hương. 2.1 Đề tài phong phú, đa dạng. 2.1.1 Niềm đồng Vay Tiền Online Chuyển Khoản Ngay. A. Nguyên nhân xuất hiện hiện tượng trào phúng Hồ Xuân Hoàn cảnh thời đại3. Cái tôi Hồ Xuân Hương B. Những đối tượng trào phúng Hồ Xuân HươngC. Ngôn ngữ trào phúng Hồ Xuân Hương. Hiện tượng trào phúng Hồ Xuân Hương A. Nguyên nhân xuất hiện hiện tượng trào phúng Hồ Xuân Hương. I. Hoàn cảnh thời đại 1. Sự sụp đổ của xã hội phong kiến làm nảy sinh những “quái thai” của xã hội, trở thành đối tượng của bút pháp trào phúng. – Tố Hữu đã từng nhận xét “Cuộc đời là điểm khởi đầu và là điểm đi tới của văn chương”, văn học là tấm gương phản ánh cuộc sống, hiện thực cuộc sống chính là nguồn chất liệu dồi dào làm nên nội dung tư tưởng cho tác phẩm. Do vậy, các hiện tượng văn học, dù muốn hay không cũng đều chịu sự tác động của thời đại. – Bối cảnh lịch sử Việt Nam thế XVIII đến nửa đầu thế kỉ XIX, với sự suy tàn của giai cấp thống trị đã làm nảy sinh trong xã hội những kiểu người lố bịch, xấu xa, giả dối, đã chà đạp lên các giá trị truyền thống. Chính những mẫu người này đã trở thành đối đả kích của bút pháp trào phúng, đặc biệt là bút pháp trào phúng của Hồ Xuân Hương. – Thế kỉ XVIII – XIX là giai đoạn khủng hoảng sâu sắc và dữ dội của những mâu thuẫn chất chưa từ trong lòng xã hội phong kiến Việt Nam. – Khởi đầu là những ông vua “Khoanh tay rũ áo” như Lê Dụ Tông, Lê Thuần Tông, Lê Ý Tông, Lê Hiển Tông, những ông chúa ăn chơi hưởng lạc như chúa Trịnh Cương, Trịnh Giang, Trịnh Sâm. – Chế độ phong kiến phát triển đến đỉnh cao nhất dưới triều Lê Thánh Tông XV thì dần dần đi vào giai đoạn khủng hoảng, suy tháoi. Nội chiến phong kiến Lê – Mạc; Trịnh – Nguyễn phá hoại nguyên trọng sự thống nhất đất nước. – Thế kỉ XVIII nọi chiến không còn, nhưng thỉnh thoảng có một vài mâu thuẫn đáng kể giữa Lê, Trịnh, hoặc ngay nội bộ họ Trịnh cũng có những lục đục tranh quyền đoạt vị. Đàng Trong nạn quyền thần Trương Phúc Loan cũng gây chém giết đổ máu không ít .Đất nước không nơi đâu yên ổn. – 1789, phong trào Tây Sơn – Nguyễn Huệ nổ ra với sức mạnh chưa từng thấy đã đạp tan tập đoàn vua Lê chúa Trịnh ở Đàng Ngoài, nhà Nguyễn ở Đàng Trong thống nhất đất nước, rồi sau đó tiếp tục đánh đuổi quân Xiêm, quân Thanh. – 1802, nhà Nguyễn dựa vào thế lực bọn địa chủ và sự giúp sức của nước ngoài lật đổ triều Tây Sơn còn non yếu, dựng nên một chính quyền cực kì phản động so với nhà Lê trước đó. * Những biểu hiện của sự khủng hoảng + Lĩnh vực chính trị ngoại giao giai cấp phong kiến càng trở nên phản động .Lê Chiêu Thống đang tâm rước giặc ngoại xâm về giày xéo quê hương đất nước. + Lĩnh vực giáo dục, thi cử tệ hại. Có thể dùng tiền mà mua chức vị “cứ tứ phẩm trở xuống, ai nộp 600 quan thì được thăng chức một bậc. Còn những người chân trắng mà nộp 2800 quan thì được bổ tri phủ, 1800 quan thì được bổ tri huyện” Việt Nam sử lược – Trần Trọng Kim + Chính sách thi cử đã làm cho xã hội trở nên nhiễu loạn. Đó là một xã hội mà người có tiền là có quyền cai trị, đạo đức và tài năng nghiễm nhiên bị xem thường ,mọi mặt trong đời sống xã hội đều suy thoái trầm trọng, quan lại xu nịnh, tàn bạo, trở thành tai họa cho nhân dân. + Các nhà cầm quyền phong kiến chỉ biết tranh giành quyền lợi và lao vào cuộc sống hưởng thụ. Kinh tế kiệt quệ, nông nghiệp không phát triển là hậu quả của những cuộc phân tranh và vì thế nạn đói tràn lan. Người dân phải gánh chịu hậu quả ghê gớm của gần mọt thế kỉ chiến tranh, rồi lại còn phải oằn lưng trước gánh nặng sưu thuế cho bạn quan tham ô lại ,đã đau thương vất vả lại trăm nghìn đau thương vất vả hơn nữa. 2. Sự biến chuyển hệ tư tưởng phong kiến và sự xuất hiện của tầng lớp thị dân đánh dấu sự xuất hiện mãnh mẽ cái tôi cá nhân trong văn học. Thế kỉ XVII, do sự phát triển của nền sản xuất hàng hóa giản đơn và do mở rộng việc buôn bán với các thương nhân phương Tây, Trung Quốc và nhật Bản, Hà Lan, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Anh, Pháp mà sự lưu thông trao đổi hàng hóa đã được tăng cường và tiền tệ đã bắt đầu có vai trò quan trọng trong đời sống .Xuất hiện tầng lớp mới tầng lớp thương nhân, thợ thủ công… Sinh hoạt mua bán đã li khai quan hệ sản xuất phong kiến. Cuộc sống của tầng lớp này là đi đây đi đó tiếp xúc nhiều kể cả với người ngoại quốc nên tư tưởng của họ tương đối tự do phóng túng hơn những ng khác . Họ bắt đầu thấy lễ giáo phong kiến là lạc hậu, Nho giáo phong kiến là trái tự nhiên, là kiềm kẹp, bất công với con người. Sự có mặt của tầng lớp thự dân cũng như sự phát triển của đô thị phong kiến thời kì này là mầm mống của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, và cũng là mọt trong số những nhân tố trực tiếp tác động đến xu hướng chống phong kiến đòi quyền sống, đòi quyền tự do cá nhân và quyền thể hiện bản ngã, khẳng định cá tính của con người xã hội lâu nay bị đè nén, bức bối nặng nề . Đây chính lànhân tố góp phần làm thay đổi ý thức, tư tưởng xã hội. Sự thay đổi ý thức, tư tưởng xã hội thể hiện ở sự phá sản chưa từng thấy của hệ ý thức phong kiến Nho giáo Bao nhiêu nguyên tắc đều bị vi phạm trắng trợn trước hết từ trong cung vua phủ chúa, nơi ngự trị những khuôn vàng thước ngọc của chính quyền phong kiến “tam cương, ngũ thường” của Nho giáo bị suy sụp một cách thảm hại tôi giết vua, con hại cha, tớ phản thầy, anh em giết lại nhau vì ngôi báu, tước vị… Sự khủng hoảng về lí tưởng của tầng lớp nho sĩ phong kiến hầu hết các nho sĩ quý tộc có tài năng, đạo đức chân chính đều mang một tâm trạng bế tắc, cho thấy một sự khủng hoảng về lí tưởng Nguyễn Du, Cao Bá Quát… Thời kì này bắt đầu thấy bóng dáng cái tôi của cá tính trong tư cách ngang tàng, phóng túng Phạm Thái, Cao Bá Quát, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Công Trứ… Tóm lại, sự khủng hoảng ý thức, cộng với sự xuất hiện của tầng lớp thị dân đã tạo điều kiện thức tỉnh cái tôi cá nhân khá mạnh mẽ. Sự thức tỉnh cái tôi cá nhân, cùng với việc nhận thức được giá trị bản thân, khao khát đòi hỏi sự tự do, đã nhận ra được bản chất kìm kẹp con người của hệ tư tưởng phong kiến, đồng thời cảm thấy khó chịu, bất mãn trước những loại người xấu xa, đồi bại – những sản phẩn của mọt xã hội đang trên đà sụp đổ. Đó chính là cơ sở cho sự phát triển mạnh mẽ của bút pháp trào phúng vào thời kì này. 3. Cái tôi Hồ Xuân Hương Bên cạnh nguyên nhân khách quan là bối cảnh xã hội, thì hiện tượng trào phúng của Hồ Xuân Hương còn xuất phát từ chính bản thân tính cách của nữ sĩ này. Hồ Xuân Hương là một nữ sĩ khát khao sống, là một con người tài hoa, học rộng biết nhiều nhưng cuộc đời có lắm bi kịch. Trước cảnh xã hội hỗn loạn với nhiều biến tướng, con người ấy làm sao có thể nhắm mắt làm ngơ, làm sao có thể để yên cho những điều sai trái cứ mặc nhiên hoành hành. Cái tôi khao khát sống mãnh liệt tài hoa của Hồ Xuân Hương, chính là nguyên nhân chủ quan dẫn đến sự xuất hiện của hiện tượng trào phúng Hồ Xuân Hương. Với bà, thơ trào phúng, trước hết là sự giải tỏa nỗi lòng, sau đó còn là một thứ vũ khí để đấu tranh với các thói hư tật xấu, là tấm khiên để bảo vệ những người phụ nữ khác trong xã hội. Cái tôi Hồ Xuân Hương trong thơ biểu hiện cũng rất đa dạng Cái tôi ấy khẳng định mình ở ngôi thứ nhất, bộc lộ thái độ riêng và cách ứng xử của bản thân “Này, này chị bảo cho mà biết” Trách Chiêu Hổ “Thiếp bén duyên chàng có thể thôi” Khóc Tổng Cóc “Ví đây đổi phận làm trai được Thì sự anh hùng há bấy nhiêu?” Đề đền Sầm Nghi Đống Hiện tượng xưng tên là một hiện tượng khá lạ và độc đáo trong thi pháp trung đại, tách khỏi cái phi ngã của thi pháp để khẳng định cái tôi cá nhân “Quả cau nho nhỏ miếng trầu hôi Này của Xuân Hương mới quệt rồi” Mời trầu “Thân này” cũng được sử dụng nhiều “Tài tử văn nhân ai đó tá? Thân này đâu đã chịu già tom!” “Thân này ví biến dường này nhỉ Thà trước thôi đành ở vậy xong” Khi bà hóa thân vào tình cảnh của người khác, xưng tôi nhưng là nói hộ tâm trạng của người khác “Cái nghĩa trăm năm chàng nhớ chửa Mảnh tình một khối thiếp xin mang” Không chồng mà chửa “Ngọt bùi thiếp nhớ mùi cam thảo Dau cầu thiếp biết trao ai nhẽ…” Bỡn bà lang khóc chồng Khi bà hóa thân vào sự vật thì cái tôi cũng hiện lên với những đặc tính, tính chất của sự vật “Thân em vừa trắng lại vừa tròn” Bánh trôi nước “Thân em như quả mít trên cây” Quả mít “Quân tử có thương thì bóc yếm Xin đừng ngó ngoáy lỗ trôn tôi” Ốc nhồi Nhìn chung, cái tôi Hồ Xuân Hương biểu hiện trong thơ có những đặc điểm chung như sau Thứ nhất, Dễ đồng cảm với những đối tượng tầm thường, nhỏ mọn như loài ốc, quả mít, bánh trôi nước, cái quạt, đồng tiền hẻm . Ở đây sự đồng cảm có hai mặt, vừa bộc lộ nỗi buồn thân phận nhỏ bé, bi kịch, những khao khát chưa được thỏa nguyện… nhưng từ đó lại làm bật lên “phép thắng lợi tinh thần” ngoa dụ sức mạnh tiềm ẩn và phẩm giá của các sự vật được miêu tả, cũng như từ đó làm bật lên phẩm giá của con người. Thứ hai, Dễ chạnh lòng với những cảnh ngộ trớ trêu, không như ý, thậm chí đắng cay, chua chát Tâm trạng đau thương trong ba bài Tự tình, khát khao hạnh phúc trong Mời trầu, thân phận hẩm hiu của người phụ nữ Làm lẽ, Không chồng mà chửa, cảnh ngộ của những đàn bà góa bụa… Có sự chú ý đặc biệt sắc sảo đến những “mặt người dị dạng” của xã hội lũ quan lại, sư hổ mang lũ học trò dốt, những kẻ giả dối, tàn nhẫn… Vịnh cái quạt, Thiếu nữ ngủ ngày, Mắng học trò dốt – I, II… B. Những đối tượng trào phúng Hồ Xuân Hương Xã hội Việt Nam thế kỉ XVIII – đầu thế kỉ XIX đã đánh dấu sự mục ruỗng của xã hội phong kiến từ trong ra ngoài, kéo theo đó là sự xuất hiện của những “quái thai xã hội” – những kiểu người dị dạng, giả dối, đạo đức giả, chà đạp lên những giá trị truyền thống tốt đẹp. Những kiểu người này chính là đối tượng đả kích chính của bút pháp châm biếm. Bằng cái nhìn sắc xảo bao quát cuộc sống, ngòi bút châm biếm Hồ Xuân Hương trở nên giàu sức chiến đấu khi đã vạch trần, tố cáo, đả kích đủ mọi tầng lớp tiêu cực trong xã hội. Ngòi bút ấy hướng đến trước hết là giai cấp thống trị, cụ thể là bọn vua quan phong kiến. Sự suy tàn của xã hội phong kiến có gốc rễ từ sự thối nát, mục ruỗng từ bọn giai cấp thống trị. Đó là những tên vua ăn chơi sa đọa, không màng đến nhân dân. Đó là bọn quan tham ô, vô lại, làm nhũng nhiễu cuộc sống của người dân vô tội. Cái cười cợt của Hồ Xuân Hương với bọn vua chúa, quả thực rất sâu cay Mười bảy hay là mười tám đây Cho ta yêu dấu chẳng dời tay. Mỏng dày từng ấy, chành ba góc Rộng hẹp dường nào, cẵm một cay Càng nóng bao nhiêu thời càng mát, Yêu đêm chưa phi lại yêu ngày. Hồng hồng má phấn duyên vì cậy. Chúa dấu vua yêu một cái này. Vịnh cái quạt II Thủ pháp song quan gắn với yếu tố cái tục đã tỏ ra là một thủ pháp châm biếm xuất sắc. Ở đây, những cánh cửa ẩn nghĩa hiện ra, hình thành trong tâm trí người đọc hai hình ảnh một hình ảnh của cái quạt giấy, một hình ảnh cơ thể người thiếu nữ. Mười bảy hay mười tám, ấy là số nan của quạt giấy, nhưng cũng là ẩn dụ cho tuổi xuân của người thiếu nữ. “Cay” lại là cái suốt của quạt giấy, hải đầu có mảnh kim loại nhài quạt hình tròn để chốt các nan lại ở hai nan cái, nhưng cũng gợi lên những liên tưởng về cơ quan sinh dục của con người. Đến đây người đọc không khỏi có cái cười khoái trá. Hóa ra, cái vua thích, chỉ là cái thứ “mỏng dày từng ấy, chành ba góc”, cũng là cái“Chành ra ba góc da còn thiếu/Khép lại đôi bên thịt vẫn thừa.” trong bài Vịnh cái quạt I. Cách diễn đạt “Chúa dấu vua yêu” với sự khẳng định “một cái này” đầy sắc sảo, bén nhọn. Vua chúa chỉ yêu một thứ ấy, có thèm để tâm đến những thứ khác đâu? Trong mắt chúa, trong mắt vua, giang sơn, xã tắc, cũng chẳng thể bằng cái vật mỏng da thừa thịt ấy! Thế chẳng phải là mục ruỗng, là suy đồi hay sao? Mục ruỗng, suy đồi từ tận gốc rễ. Mỗi xã hội đều cần một hệ tư tưởng để làm công cụ cho giai cấp thống trị. Trải qua hơn ba thế kỉ, hệ tư tưởng Nho giáo của xã hội phong kiến cũng đã bộc lộ cả những mặt mạnh, mặt yếu của mình. Đến thời kì Hồ Xuân Hương sống, hệ tư tưởng Nho giáo đã sụp đổ từ tận gốc, bởi chính những kẻ rao giảng, truyền bá nó. Bọn hiền nhân quân tử đã phạm một cách trắng trợn vào những đạo nghĩa thánh Hiền. Sự rao giảng của chúng trở thành thói đạo đức giả đáng khinh. Và tất nhiên, ngòi bút trào phúng của Hồ Xuân Hương không bỏ qua chúng Mùa hè hây hẩy gió nồm đông, Thiếu nữ nằm chơi quá giấc nồng. Lược trúc lỏng cài trên mái tóc, Yếm đào trễ xuống dưới nương long. Đôi gò Bồng Đảo hương còn ngậm, Một mạch Đào Nguyên suối chửa thông. Quân tử dùng dằng đi chẳng dứt Đi thì cũng dở ở không xong. Thiếu nữ ngủ ngày Bài thơ trước hết là sự tôn vinh vẻ đẹp cơ thể nữ. Đó là thứ vẻ đẹp căng tràn sức sống, thể hiện sự trân trọng và nhận thức sâu sắc về giá trị người nữ. Cái hay của Hồ Xuân Hương là dựa vào cái vẻ đẹp đáng trân trọng ấy để tạo ra một thứ tình huống nghịch lý, trớ trêu, thử thách bọn “quân tử hiền nhân”. Và rõ ràng, khi vương vào bẫy, cái điệu bộ của kẻ quân tử thật buồn cười “Quân tử dùng dằng đi chẳng dứt Đi thì dở ở cũng không xong” Thơ Hồ Xuân Hương là thơ Việt hóa tối đa, mỗi khi sử dụng từ Hán Việt thì thường có hàm ý mỉa mai. Ở đây, chữ “quân tử” càng trang trọng bao nhiêu, ngạo nghễ bấy nhiêu, khi đặt vào tình huống này, lại càng nhục nhã, ê chề bấy nhiêu. Hiền nhân quân tử đầu đội trời chân đạp đất theo như sách Thánh hiền, lại “dùng dằng đi chẳng dứt” – điệu bộ lấm lét như một tên trộm. Câu thơ như cái nhìn cười cợt sắc bén của Hồ Xuân Hương khi đã đánh trúng vào “tim đen” của chúng, lí giải được cái tâm tính tầm thường của chúng. Tình thế này là do ai? Chẳng phải do chính thói đạo đức giả của chúng hại chúng đấy sao? Quả là nữ sĩ họ Hồ đã ra một cú “gậy ông đập lưng ông” hết sức cao tay, tài tình. Bên cạnh bọn “hiền nhân quân tử” đạo đức giả, ngòi bút Hồ Xuân Hương còn nhắm đếm một đối tượng khác cũng thuộc giới trí thức Nho học Bọn học trò dốt. Chính sách cho phép dùng tiền để mua chức vị của triều đình, “cứ tứ phẩm trở xuống, ai nộp 600 quan thì được thăng chức một bậc, còn những người chân trắng mà nộp 2800 quan thì được bổ tri phủ, 1800 quan thì được bổ tri huyện” Việt Nam sử lược – Trần Trọng Kim, đã khiến cho việc giáo dục, thi cử thời kì này trở nên hỗn loạn. Chỉ cần có tiền là có thể mua được chức, quyền, đồng tiền chiếm thế thượng phong thâu tóm tất cả, các giá trị đạo đức bị chà đạp, bọn quan lại vì thế càng nhũng nhiễu dân lành, nhất là bọn quan hoạn. Cũng trong tình cảnh thi cử rối ren ấy, người có tài thì thì bị đánh rớt oan, còn bọn bất vài nhưng có tiền thì được xướng danh bảng vàng. Chính điều này đã làm xuất hiện một loại người “quái thai” trong xã hội Bọn học trò dốt, dốt nát nhưng lại tự cao tự đại, vẫn cứ tự mãn vào con chữ của mình, tự mãn rằng mình là rường cột nước nhà. Với loại người này, Hồ Xuân Hương vừa ghét, vừa coi thường. Nhóm bài thơ “Mắng học trò dốt” đã thể hiện rõ cái nhìn khinh khi của nữ sĩ với lũ học trò ngu dốt nhưng kiêu căng, ngạo mạn. Trong các giai thoại tương truyền về Hồ Xuân Hương, có ý kiến cho rằng bài “Mắng học trò dốt – I” ra đời khi Hồ Xuân Hương đi thăm chùa Trấn Quốc về, đang lững thững bên bờ hồ Tây thì thấy mấy thần khóa bước rảo lên theo sát ở đằng sau. Rồi các thầy giở giọng chớt nhả ra trêu ghẹo nàng. Có thầy lại hứng trí tung cả chữ nghĩa ra nữa. hồ Xuân Hương thấy họ trêu ghẹo thì vẫn im lặng, nhưng đến khi nghe cái thơ thẩn nửa mùa ấy thì không nhịn được nữa, nàng mới quay lại, đọc dồn cho các thầy một bài thơ rằng “Khéo khéo đi đâu lũ ngẩn ngơ Lại đây cho chị dạy làm thơ. Ong non ngứa nọc châm hoa rữa, Dê cỏn buồn sừng húc giậu thưa!” Bấy giờ, các thầy khóa nghe giọng thơ thì biết ngay là Hồ Xuân Hương. Riêng thầy đọc thơ lúc nãy thì thẹn chín người. Bài “Mắng học trò dốt II” cũng ra đời trong một hoàn cảnh thú vị không kém. Cũng một lần đi thăm chùa Trấn Quốc, Hồ Xuân Hương nhìn lên trên vách chuông, thấy bài thơ của một anh học trò nào đó đề lên. Câu kẹo ý tứ chán mớ đời. Thế mà cũng vác bút, vạch hàng để khoe ngu với khách vãng lai. Chẳng nói chẳng rằng, cô đề luôn một bài thơ vào khoảng trống bên cạnh “Dắt díu nhau lên trước cửa đền Cũng đòi học nói, nói không nên. Ai về nhắn nhủ phường lòi tói, Muốn sống đem vôi quét trả đền.” Điểm chung đặc biệt giữa hai bài thơ đó là sự ứng tác gần như tức thời, “xuất khẩu thành thơ” của nữ sĩ. Đó là tài năng thiên phú, nhưng đồng thời đó cũng là sự bùng phát của cảm xúc khinh bỉ, coi thường đối với đối tượng châm biếm. Trong những bài thơ này, Hồ Xuân Hương luôn xuất hiện như một vị bề trên, xưng “chị”, với giọng điệu xách mé, khinh khi của một kẻ ở vị trí cao hơn. Trong mắt bà, lũ học trò dốt chẳng qua chỉ là “lũ ngẩn ngơ”, “phường lòi tói”, cái thơ văn chữ nghĩa của chúng chẳng qua là trò trẻ con, ngựa non háu đá “Ong non ngứa nọc châm hoa rữa/Dê cỏn buồn sừng húc giậu thưa!”, chẳng qua chỉ là thứ học đòi kém cỏi “Cũng đòi học nói, nói không nên”. Bài thơ ngắn gọn, xúc tích, ứng khẩu thành thơ, ấy vậy mà giọng điệu ngạo nghễ, cái nhìn khinh khi của một kẻ có tài chiếu xuống bọn bất tài, cũng sắc bén và có sức đả thương như dao, kiếm, khiến đối tượng châm biếm nhục nhã, ê chề, nhưng đành tâm phục, khẩu phục. Là một cái tôi khao khát sống mãnh liệt, Hồ Xuân Hương ghét cay ghét đắng những kẻ đạo đức giả, kìm hãm quyền tự do của con người như bọn “hiền nhân quân tử”, đồng thời, nàng cũng ghét cả những kẻ tự tách mình ra khỏi đời sống, hay nói đúng hơn, là lấy cớ đi tu để tách mình ra khỏi đời sống, nhưng bên trong thì vẫn đầy những ham muốn đồi bại, dung tục, làm xấu mặt tôn giáo mà mình đang phụng sự. Về đề tài sư hổ mang, tiếng thơ Hồ Xuân Hương cũng có những dòng cười cợt gay gắt, chua cay. Nàng đã tài tình dựng lại một bức tranh chốn tu hành hỗn tạp, rối loạn, không ra thể thống gì “Oản dâng trước mặt dăm ba phẩm Vãi nấp sau lưng sáu bảy bà. Khi cảnh, khi tiu, khi chũm chọe Giọng hì, giọng hỉ, giọng hi ha.” Món đồ dâng lên cũng kiếng thì bày la liệt như thể món hàng ngoài chợ. Người tu hành thì không có dáng vẻ thanh tịnh của kẻ chân tu, mà lại thập thò, lén lút, nấp sau lưng “sáu bảy bà”. Đặc biệt không gian hỗn độn được đặc tả tài tình ở hai câu thơ cuối “Khi cảnh, khi tiu, khi chũm chọe Giọng hì, giọng hỉ, giọng hi ha” Tiu cảnh, chũm chọe là hai thức nhạc cụ cổ truyền của Việt Nam. Tiu Cảnh là nhạc khí tự thân vang của dân tộc Việt, gồm 2 chiếc thanh la cỡ nhỏ làm bằng đồng thau, đường kính khoảng 10 cm, một chiếc thành thấp, một chiếc thành cao, với hai âm cao thấp cách nhau quãng nǎm đúng. Tiu cảnh được treo trong hai vòng tròn của một chiếc khung có tay cầm bằng gỗ. Khi biểu diễn nhạc công tay trái cầm tiu, tay phải cầm que tre có mấu gõ vào mặt thau tạo ra âm thanh cao, vang, lảnh lót. Tiu cảnh tham gia trong ban nhạc chầu vǎn, dàn bát âm, ban nhạc cúng lễ. Chũm choẹ còn gọi là não bạt, là nhạc khí tự thân vang của dân tộc Việt. Chũm chọe làm bằng hợp kim đồng thiếc, gồm hai chiếc giống nhau, hình tròn như chiếc đĩa, có núm để cầm. Khi đánh chũm chọe, hai tay cầm hai núm, dập hai mặt vào nhau, có lúc dập chéo xuống, chéo lên. Người sử dụng chũm chọe vừa đánh, vừa múa. Âm thanh chũm chọe to, vang, hơi chói tai. Chũm chọe được sử dụng trong dàn nhạc của cung đình, trong sân khấu tuồng, cải lương, trong đám rước sư tử và tham gia trong dàn nhạc dân tộc tổng hợp hoà tấu. Hai thức nhạc khí ấy được đặt tên theo âm thanh mà nó tạo ra. Ở đây, việc sử dụng tiu cảnh, chũm chọe vừa với tư cách là danh từ, vừa với tư cách là từ tượng thanh, kết hợp với biện pháp tách từ, đặt trong điệp ngữ “khi…khi…khi…” và nhịp 2/2/3gấp gáp, ồn ã đã góp phần dựng nên một khung cảnh cảnh hỗn loạn đầy những tạp âm. Câu thơ sau đối rất chỉnh với câu thơ trước, cũng điệp ngữ “giọng… giọng… giọng…” nhịp 2/2/3 và những từ mô phỏng âm thanh của con người “hì, hỉ, hi ha” đã góp phần làm tăng sự hỗn loạn của bức tranh lên đỉnh điểm. Tiếng người, tiếng vật, hỗn loạn, tạp nham… có còn đâu là chốn tu thành hành thanh tịnh, còn đâu chốn cửa Phật thiêng liêng? Với bọn sư không lo tu hành, ngòi bút trào phúng của Hồ Xuân Hương có những sự khắc họa hiểm hóc, tài tình “Chẳng phải Ngô chẳng phải ta Đầu thì trọc lóc, áo không tà.” Bút pháp giễu nhại, biếm họa đã dựng nên bức chân dung các vị sư hổ mang một cách trớ trêu Chẳng phải giặc, cũng không phải quân mình. Một cách oái oăm, bà đặt sư vào một mối quan hệ đối lập sống còn xưa nay, Ngô – ta quần thù – đất nước, và cười khẩy khi khám phá ra những nét cá biệt, chẳng hiểu là Ngô hay ta của sư đầu trọc – thì chẳng phải Ngô rồi, mà áo truyền thống của ta là áo có tà, áo sư có tà đâu? Việc đẩy đối tượng châm biếm vào một vị thế lai căng, chông chênh ở giữa giống như một cái cười tinh quái. Ví với giặc, dù không phải là giặc, thì vẫn là một sự sỉ nhục. Mà bảo sư không phải dân mình, cũng lại là một sự sỉ nhục khác. Thậm chí, cái căm ghét của nữ sĩ họ Hồ có khi bật lên thành tiếng văng tục “Đầu sư há phải gì… bà cốt Bá ngọ con ong bé cái nhầm”. Ở đây, cũng phải thấy rõ rằng, Hồ Xuân Hương không hề đả kích Phật giáo, không hề đặt mình ở phía đối lập với tôn giáo. Nhưng Phật giáo thời kì này, cùng với sự biến động, nhiễu loạn của xã hội, cũng đã xuất hiện những phần tử xấu, bôi nhọ hình ảnh thanh tịnh của chốn cửa thiền. Ngòi bút của nữ sĩ hướng tới châm chích, đả kích các đối tượng ấy, cũng là một cách đòi lại sự trong sạch cho chốn chân tu. Lí do cao hơn cả, như đã nói ở trên, đó là bởi cái tôi khao khát sống của Hồ Xuân Hương không cho phép bà khoanh tay làm ngơ trước những kẻ rời bỏ cuộc sống, trốn tránh cuộc sống, mượn danh thanh bạch của chốn chân tu để làm trò đồi bại, bỉ ổi, nên đã khiến hồn thơ sắc bén, cá tính của bà nảy sinh những vần thơ châm biếm rấu sâu cay như thế. Ngòi bút trào phúng của Hồ Xuân Hương luôn thể hiện một cái tôi mạnh mẽ, bản lĩnh. Sự khẳng định ấy thể hiện trong việc nhận thức giá trị bản thân, khẳng định giá trị bản thân, thể hiện trong cách nhìn của bà về các thói hư tật xấu trong đời sống, và còn thể hiện ở lòng tự tôn dân tộc. Trong bài Đề đền Sầm Nghi Đống, thông qua việc châm biếm, đả kích một tên tướng giặc bại trận, cái tôi Hồ Xuân Hương đã được bộc lộ rất mạnh mẽ “Ghé mắt trông lên thấy bảng treo Kìa đền thái thú đứng cheo leo Ví đây đổi phận làm trai được Thì sự anh hùng há bấy nhiêu?” Đền Thái thú ở đây chỉ đền Thái thú Sầm Nghi Đống. Họ Sầm là tướng của Tôn Sĩ Nghị cầm đầu một đạo quân nhà Thanh sang xâm lược ta năm Kỉ Dậu 1789. Khi bị vua Quang Trung tấn công, quân Thanh thua chạy, Sầm Nghi Đống phải thắt cổ tự tử. Sau này Hoa Kiều lập đền thờ Sầm Nghi Đống trên gò Đống Đa – Hà Nội. Dù ở bất cứ ngôi đền nào, thì thái độ của người ghé thăm thường là sự tôn kính. Thế nhưng ở đây, thái độ Hồ Xuân Hương thì hoàn toàn khác hắn. Đầu tiền là cái “ghé mắt”, ghét mắt – một cái nhìn nửa vời, không chủ ý, một cái nhìn vô tình thấy, đồng thời trong đó còn hàm chứa sự tự cao, và cả sự khinh khi với kẻ đối diện. Ở nơi thờ tự tôn nghiêm, ấy vậy mà thơ nữ sĩ họ Hồ lại có chỉ từ “kìa”, đứng tách biệt ra khỏi với câu thơ bằng nhịp 1/3/3 – đó là cái chỉ trỏ, có hàm ý coi thường. Như vậy, tư thế của Hồ Xuân Hương ở đây là một tư thế hiên ngang, ngạo nghễ, có phần ngang tàng. Mà quả thật như vậy, nàng đã không ngại ngùng khẳng định cái tôi của mình “Ví đây đổi phận làm trai được Thì sự anh hùng há bấy nhiêu?” Nàng đã không ngại ngần khẳng định khí phách của mình, nếu làm nam nhi, nàng còn có thể làm nhiều hơn thế. Cách sử dụng cụm “sự anh hùng” cũng đầy tính châm biếm, mỉa mai. Người anh hùng chân chính làm nên “sự nghiệp anh hùng”, nó to lớn, đồ sộ, khác hẳn với “sự anh hùng”, nghe nhẹ hều, mà có bề gì đấy như giả dối, như một dạng anh hùng rơm. Đã “sự anh hùng”, lại còn “há bấy nhiêu”, câu hỏi tu từ kết bài đầy tính thách thức, đầy chất mỉa mai. Ở đây ta còn thấy xuất hiện vẻ đẹp của lòng tự tôn dân tộc, qua việc sỉ nhục, khinh bỉ một tên giặc ngoại xâm bại trận. Tiếng nói của Hồ Xuân Hương là tiếng nói của cái tôi khao khát cuộc sống, của cái tôi cá nhân ngang tàng, ngạo nghễ, sẵn sàng khẳng định bản thân. Đúng, nhưng tiếng nói ấy còn có lục vượt ra khỏi khuôn khổ của cái tôi để trở thành tiếng nói của cái ta – tiếng nói chung cho thân phận người phụ nữ của thời đại. Bên cạnh những tiếng kêu than đau đớn cho số phận con người, thì Hồ Xuân Hương còn góp tiếng nói mạnh mẽ để đấu tranh, đòi quyền sống cho người phụ nữ bằng ngòi bút trào phúng của mình. Nàng đã lên tiếng bênh vực cho một cô gái trót lâm vào cảnh “Không chồng mà chửa” “Cả nể cho nên hóa dở dang, Nỗi niềm chàng có biết chăng chàng Duyên thiên chưa thấy nhô đầu dọc Phận liễu sao đà nảy nét ngang. Cái nghĩa trăm năm chàng nhớ chửa? Mảnh tình một khối thiếp xin mang. Quản bao miệng thế lời chênh lệch, Không có, nhưng mà có, mới ngoan!” Không chồng mà chửa Bài thơ giống như một lời tuyên ngôn bảo vệ hạnh phúc của người phụ nữ, đồng thời còn là một tiếng lòng đồng điệu, bày tỏ hết tâm tình của người con gái yêu bằng cả trái tim, dâng hiến tất cả, để rồi bị phụ tình. Hồ Xuân Hương đã rất mạnh mẽ bảo vệ người phụ nữ ấy “Quản bao miệng thế lời chênh lệch/Không có, nhưng mà có, mới ngoan”. Ấy là cái ý tứ mượn từ ca dao “Không chồng mà chửa mới ngoan/Có chồng mà chửa thế gian chuyện thường”. Tuy vậy, thấp thoáng đâu đó trong bài thơ còn có cái cười nhẹ, một cái cười chê trách. Không phải là ngẫu nhiên mà bài thơ xuất hiện những câu hỏi “chàng có biết chăng chàng”, “chàng nhớ chửa” . Đó là những lời dò hỏi tâm tình, đó là lời nhắc nhớ, mà đó cũng là lời oán trách. Một cái cười nhẹ mỉa mai oán trách của nữ sĩ họ Hồ. Chàng quân tử kia ơi, chàng nam nhi kia ơi, sao chàng có gan làm, mà không có gan chịu, sao chàng dám yêu, mà không dám nhận trách nhiệm, sao chàng nỡ bỏ người con gái dành tất cả cuộc đời cho chàng? Thế thì chàng còn đáng mặt nam nhi không, thế thì chàng còn mặt mũi nào mà sống trong trời đất này nữa? Cái cười mỉm ấy của Hồ Xuân Hương, hiền, nhưng chua xót, nhẹ nhàng mà thấm thía. Các lễ giáo phong kiến cùng với tư tưởng trọng nam khinh nữ và chế độ đa thê đã mang lại cho người phụ nữ biết bao cay đắng, tủi nhục. Sinh thời, Hồ Xuân Hương cũng là nạn nhân của việc làm lẽ, cũng chịu bao cay đắng, tủi hờn, đến nỗi phải thốt lên “Chém cha cái kiếp lấy chồng chung/Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng”. Bên cạnh tiếng chửi, cũng có cả những tiếng cười cợt, như bài “Khóc tổng cóc” “Chàng Cóc ơi! Chàng Cóc ơi! Thiếp bén duyên chàng có thế thôi. Nòng nọc đứt đuôi từ đây nhé Nghìn vàng khôn chuộc dấu bôi vôi” Tiếng cười nảy sinh từ phép chơi chữ tài tình của nữ sĩ họ Hồ, lợi dụng hiện tượng đồng âm của từ, sử dụng sự tương đồng trong các phép ẩn dụ để mang cả họ nhà cóc vào bài thơ chàng, cóc, bén, nòng nọc, chuộc. Bài thơ khóc chồng, sao lại vui vẻ thế, sao lại mang cả “họ nhà chồng” vào chế giễu như thế, có phải nữ sĩ quá tàn nhẫn không? Có thuyết cho rằng Hồ Xuân Hương làm bài “Khóc tổng Cóc” không phải do tổng Cóc chết mà là sau khi bị người vợ cả ngăn cản, chia rẽ. Vì thế Hồ Xuân Hương mới đưa tên cả họ hàng nhà Cóc vào bài thơ chế giễu. Như vậy đấy, ngay trong tình cảnh đáng thương, hẩm hiu của mình nữ sĩ họ Hồ vẫn có những dòng thơ cười cợt, châm biếm sâu cay. Chẳng hiểu tổng Cóc đọc những vẫn thơ này sẽ cảm thấy thế nào, nhưng người đọc thì thấy khâm phục một tài năng Hồ Xuân Hương, một tấm lòng ham sống của Hồ Xuân Hương. Vợ cả ngăn cản, chia rẽ, không làm gì được, nàng xem như chồng đã chết, lại còn làm cả một bài thơ khóc chồng, nhưng khóc đâu chẳng thấy, chỉ thấy cười cợt, giễu mỉa. Trong hoàn cảnh đáng thương của chính mình mà vẫn có thể cười cợt, bông lơn, đó cũng chính là khí phách “nín đi kẻo thẹn với non sông” của Hồ Xuân Hương vậy. Trong các loại trào phúng, thì yếu tố cái hài là yếu tố nhẹ nhàng nhất, nó chỉ là một cái cười nhẹ nhàng, cho vui, cho khuây khỏa, nó là cái cười không làm người ta mích lòng, cũng không phải để đả kích, chiến đấu, hay hạ bệ ai cả. Với những đề tài về người phụ nữ, ngòi bút trào phúng Hồ Xuân Hương cũng chọn cái hài hước nhẹ nhàng ấy làm công cụ bày tỏ, tiêu biểu là qua nhóm bài thơ bỡn người phụ nữ khóc chồng Văng vẳng tai nghe tiếng khóc gì Thương chồng nên nỗi khóc tì ti Ngọt bùi thiếp nhớ mùi cam thảo Cay đắng chàng ơi vị quế chi Thạch nhũ, trần bì sao để lại Quy thân, liên nhục tẩm mang đi Dao cầu thiếp biết trao ai nhỉ Sinh ký chàng ơi, tử đắc quy. Bỡn bà lang khóc chồng Văng vẳng tai nghe tiếng khóc chồng Nín đi kẻo thẹn với non sông. Ai về nhắn nhủ đàn em bé, Xấu máu thì khem miếng đỉnh chung. Dỗ người đàn bà khóc chồng Cả hai bài thơ đều mở đầu bằng cụm “văng vẳng tai nghe tiếng khóc”. Rõ ràng, trước nỗi bất hạnh của người phụ nữ, trước nỗi đau của người góa phụ, Hồ Xuân Hương có sự đồng cảm sâu sắc. Nhưng tại sao ở đây lại có sự bỡn cợt? Trước hết, cần điểm lại bối cảnh xã hội lúc bấy giờ. Xã hội phong kiến là xã hội mang nặng tư tưởng Nho giáo, mà người phụ nữ bị kìm cặp trong tam tòng, tứ đức “Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử”. Người phụ nữ, nếu chồng chết, phải thủ tiết thờ chồng. Và cái bi kịch của con người nảy sinh ở chỗ ấy Nếu người góa phụ hẵng còn trẻ, tuổi xanh hẵng còn, chẳng lẽ phải hoài phí tuổi xanh để thờ một người đã chết? Việc tự nguyện, hay không tự nguyện, là lựa chọn của mỗi người, nhưng ta thấy rằng, quan niệm này đã gây ra bi kịch cho không ít phụ nữ. Tiếng khóc ở đây, có lẽ khóc vì thương xót chồng cũng một phần, nhưng phần nhiều là khóc cho thân phận của mình, cho số phận của chính mình. Đau đớn, tủi thân, thì phải khóc. Nhưng có lẽ, khóc, là cam chịu, là đớn hèn, là chịu khuất phục số phận. Phải chăng đó là lí do Hồ Xuân Hương, một cái tôi ngang tàn, không chịu khuất phục cất lên tiếng nói cười cợt? Hẳn là vậy, hơn nữa, Hồ Xuân Hương còn khuyên nhủ họ “Nín đi kẻo thẹn với non sông”. Cái khí thế mới ngang tàn, ngạo nghễ làm sao? Đương thời cũng có Nguyễn Công Trứ “Đã mang tiếng ở trong trời đất/ Phải có danh gì với núi sông”. So với cái chí nam nhi của Nguyễn Công Trứ, cái khí phách nữ nhi của Hồ Xuân Hương cũng không thua kém gì, thậm chí có phần đặc biệt hơn, đặt trong bối cảnh xã hội trọng nam khinh nữ. Cái tài tình của Hồ Xuân Hương còn thể hiện ở chỗ, bút pháp trào phúng của bà không chỉ hướng đến con người và các hiện tượng cụ thể trong đời sống, mà ngay cả những hiện tượng siêu nhiên siêu hình, cũng trở thành đối tượng để bà cười cợt, trêu đùa “Khen thay con tạo khéo khôn phàm” Hang Thánh Hóa “Khen ai đẽo đá tài xuyên tạc” Hang Cắc Cớ “Rõ khéo trời già đến dở dom.” Động Hương Tích Thiên nhiên tạo hóa trong mắt bà cũng là một con người bình thường để bỡn cợt, cũng khôn phàm, thậm chí ngang hàng để bà cười cợt “khen thay”, có khi thì như một người bạn để bà mắng yêu, cười mát mẻ, gọi là “trời già”, gọi là “dở dom”. Cái chơi chữ “tài xuyên tạc” trong bài “Hang Cắc Cớ” bà sử dụng cũng rất tài tình. Xuyên, tạc, đó là những hành động của người thợ chạm khắc, rất hợp với ngữ cảnh “khen ai đẽo đá”. Thế mà, “xuyên tạc”, lại là hành động bóp méo lời nói của người khác, là một hành động không hay. Cái trêu ngươi của Hồ Xuân Hương là ở chỗ đấy. Cười cợt cả tạo hóa, tự nâng mình lên ngang tầm vũ trụ, đó là biểu hiện đầy ấn tượng của cái tôi cá nhân Hồ Xuân Hương. Đồng thời, nó cũng là một biểu hiện cho một tính cách phóng khoáng, hào sảng, khát khao một cuộc sống tự do, tự tại. Tóm lại, ngòi bút trào phúng của Hồ Xuân Hương hướng đến đủ mọi đối tượng, đủ thói hư tật xấu trong xã hội, đồng thời cũng rất đa dạng, đa giọng điệu, đa bút pháp. Nghệ thuật trào phúng chính là vũ khí đắc lực nhất của văn học, biến văn học trở thành công cụ cải tạo xã hội, đấu tranh với những điều xấu xa, đồi bại trong xã hội để bảo vệ lẽ phải, công lý, đòi quyền sống cho con người. Tiếng cười trào phúng của Hồ Xuân Hương, thông qua yếu tố cái tục, là thứ “khí giới vừa thanh cao vừa đắc lực mà chúng ta có, để tố cáo vạch trần một xã hội xấu xa, giả dối, làm người đọc phong phú hơn, trong sạch hơn” Thạch Lam. C. Ngôn ngữ trào phúng Hồ Xuân Hương. Để tạo nên hiệu quả trào phúng trong các tác phẩm, nghệ thuật sử dụng ngôn từ điêu luyện vào loại bậc thầy của Hồ Xuân Hương là một yếu tố quan trọng không thể thiếu. Xứng đáng với danh hiệu “Bà chúa thơ Nôm”, Hồ Xuân Hương đã biết vận dụng ngôn ngữ bình dân một cách tài tình và điêu luyện, từng từ, từng chữ sử dụng đều đắt giá và có hiệu quả nghệ thuật cao. Trước hết phải kể đến việc bà sử dụng thể thơ trong các sáng tác của mình. Trong thơ Hồ Xuân Hương, thể thất ngôn bát cú hay tuyệt cú của Đường luật của Trung Quốc đã được Việt hóa để trở thành những thể thơ của nhân dân quần chúng. Biểu hiện của sự việt hóa đó như sau Thứ nhất, lời thơ như lời nói cửa miệng, không có vẻ gì là thông thái. Câu thơ đầy tính khẩu ngữ với các lời vẫy gọi ơi, hỡi, với cách gọi “bọn”, “lũ”, thậm chí cả những lời văng tục “bá ngọ…”. Trên thực tế, có những bài thơ như nhóm bài thơ Mắng học trò dốt là những bài thơ ứng khẩu, lời nói thành thơ, mà thơ như lời nói. Thứ hai, không sử dụng điển tích điển cố Trung Quốc hay từ Hán Việt, việc sử dụng từ Hán Việt nếu có, là để mỉa mai. Ta thấy rất rõ điều này trong bài “Thiếu nữ ngủ ngày”, nữ sĩ Hồ Xuân Hương đã hạ hai chữ “quân tử” rất đắt ở cuối bài thơ, tương phản và bị hạ bệ một cách ê chề trong hành động lấp ló, không minh bạch “đi thì dở, ở không xong”. Thứ ba, thơ Hồ Xuân Hương đã thoát khỏi đặc tính ước lệ khắt khe của thể thơ, mỗi bài của XH là một bức tranh, một câu chuyện, một lát cắt cuộc sống, sự vận động trong thơ rất sống động, mạnh mẽ, phải cẩm nhận bằng tất cả các giác quan. Thứ tư, thơ Hồ Xuân Hương Mang tính chất dân gian ở nét trào phúng, đả kích, phù hợp với nếp nghĩ truyền thống vừa vui vừa hóm, vừa đùa bỡn, cười vợt, vừa nghiêm trang, vừa nói chơi vừa nói thật… Bên cạnh việc sử dụng thể thơ độc đáo, nhịp thơ được ứng dụng uyển chuyển, đa dạng cũng làm cho thơ trào phúng Hồ Xuân Hương trở nên hấp dẫn, sức hấp dẫn trước tiên là ở sự đa giọng điệu – Thơ tuyệt cú thường là nhịp 4/3 hoặc 2/2/3. Thơ Hồ Xuân Hương nhịp rất uyển chuyển, nhiều câu đã phá vỡ khuôn nhịp cũ mà có lối nghỉ tùy thuộc vào cảnh tình, cũng như dụng ý nghệ thuật. Nhịp thơ cho ta hình dung sự chỉ trỏ một cách cụ thể. Nhịp 2/5 “Chiếc bách/buồn về phận nổi nênh” è cảnh cô đơn, bé nhỏ, cam chịu” Tự tình III Nhịp 2/3/2“Nỗi niềm/chàng có biết/chăng chàng” è sự tức tưởi, lời than thân trách phận. Sự dở dang Nhịp 1/3/3 “Kìa/cái diều ai/ nó lộn lèo” Quán Khánh Cùng với việc sử dụng thể thơ, nhịp thơ, cách xử lí chất liệu ngôn từ của Hồ Xuân Hương cũng vào loại bậc thầy. Thứ nhất, từ ngữ bà sử dụng rất hiểm hóc, hiểm hóc một cách tự nhiên, không mài dũa, trau chuốt. Đó là công cụ đánh bại kẻ thù , đánh mạnh, đánh lắt léo, đau mà đối phương không dám kêu, chỉ dám ngậm miệng căm tức. Như bài Mắng học trò dốt II, là một bài thơ ứng khẩu, chỉ cần một chữ “phường lòi tói” thôi là đã cho thấy hết bản chất ngu dốc mà thích khoe khoang của bọn học trò dốt, đồng thời cho thấy cái khinh miệt của nữ nhà thơ đến hạng người này. Cách sử dụng ngôn từ ở đây rất tự nhiên, như câu cửa miệng, mà đắt giả, hiểm hóc vô cùng. Thứ hai, Từ ngữ hết sức gợi tả trăng thu thì “đỏ lòm lom”, nước hay gió thì “vỗ phập phòm”, “rơi lõm bõm” . Bà thường xuyên sử dụng từ láy, sử dụng rất tài tình. Không thể không kể đến lối nõi ỡm ờ, nói lái như trong các truyện cười của dân gian, khi cần có thể văng tục “Quán Sứ sao mà cảnh vắng teo Hỏi thăm sư cụ đáo nơi neo” Chùa Quán Sứ “Đầu sư há phải gì… bà cốt Bá ngọ con ong bé cái nhầm. Sư bị ong châm “Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng Chém cha cái kiếp lấy chồng chung” Làm lẽ Khả năng mô phỏng âm thanh trong thơ Hồ Xuân Hương cũng rất tài tình “Một đàn thằng ngọng đứng xem chuông Nó bảo nhau rằng ấy ái uông.” Mắng học trò “Khi cảnh, khi tiu, khi chũm chọe Giọng hì, giọng hỉ, giọng hi ha” Sư hổ mang Một điểm quan trọng trong việc sử dụng ngôn từ của Hồ Xuân Hương đó là hiện tượng xưng tên trong tác phẩm “Quả cau nho nhỏ miếng trầu hôi Này của Xuân Hương mới quệt rồi” Mời trầu Việc xưng tên trong tác phẩm chính là biểu hiện rõ ràng nhất của việc thức tỉnh cái tôi cá nhân, và thoát li dần dần khỏi thi pháp trung đại. Đặc trưng thi pháp trung đại là phi ngã, coi trọng cái ta, cái tôi cá nhân không được nhắc đến, chứ đừng nói xưng tên trong bài thơ. Sự sụp đổ của chế độ phong kiến, cùng với sự biến đối tư tưởng xã hội đã tạo điều kiện cho cái tôi thức tỉnh, và thời kì này cũng không ít nhà thơ đã bắt đầu đưa tên vào tác phẩm. Chúng ta có Nguyễn Du “Bất tri tam bách dư niên hậu/ Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như”, hay Nguyễn Công Trứ “Ông Hy Văn tài bộ đã vào lồng”. Là một người phụ nữ, vốn bị coi rẻ trong xã hội, đặt ngang với hiện tượng xưng tên của các nam thi sĩ trên, vị thế của Hồ Xuân Hương càng trở nên đặc biệt. Còn một điểm cần lưu ý nữa Nếu các nhà thơ nam kia chỉ xưng tên hiệu, thì Xuân Hương đã xưng tên thật, cách khẳng định còn có phần mạnh mẽ hơn, quyết liệt hơn. Như vậy, việc xưng tên trong thơ Hồ Xuân Hương chính là biểu hiện của một cái tôi ngang tàn, mãnh liệt Hồ Xuân Hương. Nhưng không chỉ có thế, cùng với sự xuất hiện của cái tôi Hồ Xuân Hương, thì “thân em” cũng chính thức bước từ ca dao dân ca vào địa hạt của văn học viết. Có lẽ Hồ Xuân Hương là nữ sĩ đầu tiên đặt vấn đề về người phụ nữ ở góc nhìn thứ nhất, là một người phụ nữ, nói về một người phụ nữ, và có lẽ, ở Hồ Xuân Hương, lần đầu tiên “thân em” tội nghiệp của ca dao bước vào địa hạt của văn chương bác học, vẫn giữ nguyên những cảm xúc, nỗi niềm từ ca dao, nhưng đặt trong một lớp vỏ nghệ thuật điêu luyện hơn, sắc sảo hơn. Bên cạnh đó, ngôn ngữ sinh hoạt hằng ngày, khẩu ngữ, thành ngữ, tục ngữ, cũng được Hồ Xuân Hương sử dụng linh hoạt đến “ghê người” từ dùng của Giáo sư Lê Trí Viễn. MỤC LỤCMỞ ĐẦU1. Lí do chọn đề tàiHồ Xuân Hương là một hiện tượng văn học hiếm thấy của nền văn học ViệtNam. Không chỉ tài hoa xuất chúng mà cả thơ văn lẫn cuộc đời của bà cũng đãlàm tốn không biết bao nhiều là giấy mực của giới nghiên cứu. Giáo sư Lê ĐìnhKỵ khi bàn về Hồ Xuân Hương đã từng có câu nhận xét như sau “Thơ XuânHương vốn xa lạ với lối đại ngôn kiểu đó, mà bình dị, tự nhiên - không phải khẩukhí mà là huyết khí, với khí chất riêng của mình”. Chính vì mang một cốt cáchriêng, khí khái riêng mà ẩn chứa trong thơ Xuân Hương là sức sống tiềm tàngmãnh liệt, luôn chực chờ tuôn trào trong từng câu chữ và một trong những thứtạo nên cốt cách riêng ấy, chính là nghệ thuật trào phúng trong thơ của Hồ Mục đích nghiên cứuViệc tìm hiểu kỹ hơn về nghệ thuật trào phúng trong thơ Hồ Xuân Hương sẽgiúp chúng ta hình dung rõ nét hơn về con người và cá tính trong thơ của bà,đồng thời hiểu được lý do vì sao thơ văn của Hồ Xuân Hương lại có giá trị to lớnđến thế đối với nền văn học nước Đối tượng nghiên cứuĐối tượng nghiên cứu của đề tài này là nghệ thuật trào phúng trong thơ HồXuân Phạm vi nghiên cứuPhạm vi nghiên cứu đề tài này xoay quanh các tác phẩm thơ của Hồ Phương pháp nghiên cứu-Phương pháp phân tích – tổng pháp liệt pháp so sánh….NỘI DUNGCHƯƠNG I KHÁI NIỆM TRÀO PHÚNG VÀ NGHỆ THUẬT TRÀOPHÚNG TRONG THƠ HỒ XUÂN HƯƠNG1. Khái niệm “Trào phúng”“Trào phúng” bản thân nó là từ Hán - Việt. Nếu tách riêng từng chữ thì “trào” làcười cợt, chế giễu; “phúng” là lời bóng gió để châm biếm, đả kích. Nghệ thuật tràophúng là cách thức dùng ngôn từ ví von, bóng gió để châm biếm, đả kích những thóihư tật xấu trái với lương tri, đạo đức xã ta thường chia trào phúng thành ba loại chính loại khôi hài, cười cợt; loạtphê phán, đả kích và loại châm biếm chế giễu. Đặc trưng cơ bản của thơ trào phúnglà yếu tố gây cười, yếu tố hài hước trong văn bản được thể hiện về mặt nội dung lẫnhình thức và ta có thể cảm nhận rõ điều này trong thơ của Hồ Xuân Đối tượng trào phúng trong thơ Hồ Xuân HươngHồ Xuân Hương nhìn ra những ung nhọt của xã hội và đưa vào thơ mình, tiếngchửi của bà cất lên đầy hả hê khiến người nghe cũng phải cười thích thú. Đối tượnglên án của bà rất đa dạng nhưng đều có đặc điểm chung là những tên “bụng đầy kinhsách” hay những hạng “quyền cao chức trọng” nhưng lúc nào cũng tỏ vẻ thanh là những tên công tử nhà giàu hợm hĩnh, đã ham ghẹo gái lại còn võ vẽ làm thơ,lại còn thích đề thơ trước cửa đền, chùa khoe mẽ2“Dắt díu nhau lên đến cửa chiền,Cũng đòi học nói, nói không về nhắn bảo phường lòi tói,Muốn sống, đem vôi quét trả đền”Bọn Đồ DốtBà truy ra tận gốc lũ hại dân, hại nước không chừa bất cứ ai, kể cả lũ vua chúa ,quan lại, hiền nhân quân tử... luôn cho mình có sứ mạng truyền bá, hành xử đạo líthánh hiền, giữ gìn kỉ cương xã hội nhưng con người thật của chúng không chỉ hámdanh, hám lợi mà còn đam mê tửu sắc“Hồng hồng má phấn duyên vì cậyChúa dấu vua yêu một cái này”Vịnh quạtNếu với tầng lớp vua chúa, quan lại bà chửi thẳng vào cái thói háo sắc nhưngthích “giả vờ” thì với đám quan thị, bà đánh vào cái cuộc sống trái lẽ tự nhiên củabọn chúng “Quan thị”. Ngoài ra, sư sãi cũng là một trong những đối tượng đượcnhắc đến không ít lần trong thơ Xuân Hương. Trong cái xã hội rối ren, nhà chùa đãkhông còn giữ được vẻ trang nghiêm, thành kính vốn có mà thay vào đó là nhữngtên sư vô lại, lợi dụng nơi tu hành để thực hiện những hành vi giả dối đồi bại “Sưhổ mang”, “Chùa Quán Sứ”, “Cái kiếp tu hành”….Tuy được nhắc đến nhiều nhất và trọng tâm nhất vẫn là những “anh hùng quântử”, nhưng Xuân Hương cũng không bỏ qua những tên đàn ông bạc tình bạc nghĩa,xem tình cảm của những cô gái ngây thơ là trò chơi để rồi khi “no xôi chán chè”,chúng thẳng tay rũ bỏ“Duyên thiên chưa thấy nhô đầu dọc,Phận liễu sao đà nảy nét nghĩa trăm năm chàng nhớ chửa?Mảnh tình một khối thiếp xin mang”3Không chồng mà chửaTrào phúng trong thơ Xuân Hương được thể hiện bằng nhiều cung bậc cảm xúckhác nhau. Hả hê có, thích thú có nhưng đắng cay có, chua xót cũng nhiều. Tiếngcười mang ý nghĩa sâu sắc và ẩn chứa trong đó là sự phản kháng mạnh mẽ, quyết liệtvà không chỉ trào phúng, thơ Hồ Xuân Hương còn rất đậm đà chất trữ tình đặc II NÉT ĐẶC SẮC VỀ NGHỆ THUẬT TRÀO PHÚNG TRONGTHƠ HỒ XUÂN HƯƠNG1. Khắc họa hình tượng nhân vật, chủ thể điệu bộ, cử chỉ, tính cáchĐể góp phần tạo nên thành công trong việc xây dựng nghệ thuật trào phúng,chúng ta không thể không nhắc đến tài năng khắc họa hình tượng nhân vật của HồXuân Hương. Bà đã phác nên những nét rất riêng cho các nhân vật của mình mộtcách giản đơn, dung dị mà chẳng cần miêu tả ngoại hình bằng những từ ngữ, câu thơdài dòng. Bà khéo léo thổi hồn vào nhân vật và thông qua đó biểu lộ thái độ của bảnthân“Khéo khéo đi đâu lũ ngẩn ngơLại đây cho chị dạy làm thơ”Ong non ngứa nọc châm hoa rữaDê cỏn buồn sừng húc dậu thưa!”Lũ ngẩn ngơTrong “Giai thoại văn học Việt Nam” có ghi chép, một ngày kia, Hồ XuânHương đi thăm chùa Trấn Quốc về, bà đang lững thững đi bên bờ hồ Tây thì có vàitên thầy khóa rảo theo sau, giở giọng chữ nghĩa ra hòng trên ghẹo. Xuân Hương vẫnlặng thinh không nói, nhưng đến khi nghe cái thứ “thơ thẩn” nửa mùa ấy, không chịuđược, bà quay lại đọc dồn cho chúng cho bài thơ. Chỉ với một từ “ngẩn ngơ” ngaycâu đầu tiên đã phác họa toàn bộ dáng vẻ của những tên văn sĩ nửa mùa nhưng haytỏ vẻ. Chúng tuy mang tiếng chữ nghĩa đầy mình nhưng khi thốt ra cũng chẳng khác4gì “lũ ngẩn ngơ”, không biết gì, để đến nỗi một cô gái trẻ phải “dạy” lại. Hồ XuânHương gọi chúng là “dê cỏn” chứ không phải dê con, vì dê con là dê còn nhỏ, cònngây thơ, “dê cỏn” là hạng dê mới lớn, có cái vẻ ngang ngược, tự đắc. Cách gọi“ong non”, “dê cỏn”, “ngứa nọc”, “buồn sừng” thể hiện rất thành công bản chất titoe của những anh nửa trẻ con nửa người lớn. Bọn chúng chỉ là những kẻ “ngựa nonháu đá”, hợm hĩnh chứ thực chất không có một chút học thức thật sự nào. Có thểnói, cái thú vị, hóm hỉnh của Xuân Hương khiến chúng ta bật cười, cười vì thích thúxen lẫn nể phục vì tuy là nữ nhi, nhưng tài nghệ văn chương của bà còn hơn hẳn cáithứ mang danh “thầy” nửa mùa trong bài “Sư hổ mang”, vị sư thầy đáng kính, đạo mạo chúng ta hay nghĩtới mỗi khi nhắc đến chùa chiền, Phật giáo đã không còn thấy trong thơ bà nữa“ Chẳng phải Ngô, chẳng phải ta,Đầu thì trọc lốc, áo không dâng trước mặt dăm ba phẩm,Vải núp sau lưng sáu bảy cảnh, khi tiu, khi chũm choẹ,Giọng hì, giọng hỉ, giọng hi lâu có lẽ lên Sư cụ,Ngất nghểu toà sen nọ đó mà.”Sư hổ mangĐầu trọc thì rất đỗi bình thường, sư nào mà đầu chẳng trọc? Thế nhưng khi đikèm với từ “lóc” thành “trọc lóc”, “áo không tà”, chân dung nhà sư hiện lên đầy vẻthấy mỉa mai, đùa cợt. Ban ngày cũng như bao nhà sư khác, cũng cúng dường,“oảndâng” Phật rất bình thường, ấy thế mà ẩn sau đó, cái “sắc dục” vẫn quẩn quanh , vâyhãm lấy nhà sư. Không chỉ thế, chùa chiền vốn là chốn tôn nghiêm, thiêng liêng, ấyvậy mà sao sư với vãi cứ như đang chơi trò chơi của đám con nít?! Ở chùa chỉ cóchuông, mõ mà đây lại có đủ thứ nhạc khí như một phường bát âm "Khi cảnh, khi5tiu, khi chũm chọe". Và tụng kinh niệm Phật mà muốn đổi giọng nào thì đổi "Giọnghì, giọng hỉ, giọng hi ha" chẳng khác diễn tuồng! Chỉ bằng một vài hình ảnh cùng cửchỉ, giọng điệu thôi nhưng đã toát hình tượng một nhà sư mà người đời kính trọngtrở nên biến chất về mặt đạo đức đến mức nào trong cái xã hội lúc bấy khắc họa nhân vật của Hồ Xuân Hương vô cùng đơn giản nhưng lại toát lênhương vị, đặc trưng, điển hình cho phong cách thơ của bà. Chỉ bằng một vài nétchấm phá, hình tượng con người hiện lên với đầy đủ những đặc điểm, tính chấtmà Xuân Hương muốn đề cập đến. Đó không phải là điều mà bất cứ nhà thơ nàocũng có thể thực hiện được, nhưng ta thấy rất rõ nét trong nhiều bài thơ của “bà chúathơ Nôm” Hồ Xuân Cách sử dụng từ ngữNếu như so sánh các kiểu lựa chọn từ ngữ của Bà Huyện Thanh Quan với cáchsử dụng từ ngữ của Hồ Xuân Hương, ta sẽ thấy có sự đối nghịch rõ nét giữa haingười. Cùng là miêu tả về đèo nhưng câu chữ của Bà Huyện Thanh Quan sangtrọng, mực thước và mang phóng cách thơ văn “quý tộc”“Bước tới đèo Ngang bóng xế tàCỏ cây chen lá, đá chen hoaLom khom dưới núi, tiều vài chúLác đác bên sông, chợ mấy nhà”Qua Đèo NgangTrong khi đó, Đèo Ba Dội của Hồ Xuân Hương vô cùng gần gũi, thân thuộc hơnrất nhiều. Nếu đứng về phương diện ý nghĩa thanh nhã mà so sánh thì bài thơ của BàHuyện Thanh Quan như là một bức hình đen trắng bằng phẳng còn bài Đèo Ba Dộinhư là một bức tranh nổi ba chiều sống động đầy màu sắc và âm XuânHương không chiêm nghiệm cuộc sống từ khoảng cách xa mà trái lại bà tận hưởngtất cả âm thanh, màu sắc, hình khối… của vạn vật trong trạng thái sung mãn nhất6của nó. Nữ thi sĩ tài hoa đã khai thác triệt để khả năng tu từ phong phú của ngôn ngữdân tộc và hơn bao giờ hết, nghệ thuật trào phúng cũng được bà mài giũa bén nhọnhơn. Tài năng về mặt ngôn ngữ không chỉ biểu lộ thông qua cách thức miêu tả cảnhvật thiên nhiên, mà khi muốn trào lộng một ai đó, bà còn có thể khiến chúng, dù chocó là bậc “anh hùng”, “quân tử”, “văn nhân” hay thậm chí là bậc “vua”, “chúa” đinữa cũng phải mất đi cái vẻ thiêng liêng, đạo mạo, bà bóc trần những kẻ giả dối màluôn khoác lên thân chiếc áo đạo đức cao sang . Cả cái tiếng xưng hô với thần thánh“đây”, “đấy” của bà khi đứng trước Đền Sầm Nghi Đống cũng nghe đầy vẻ kể cả,xách mé“Ví đây đổi phận làm trai được,Thì sự anh hùng há bấy nhiêu!”Đền Sầm Nghi ĐốngKhông chỉ thế, việc sáng tạo ra nhiều từ ngữ mới lạ, cách thức dùng cũng rất“Xuân Hương”. Những từ ngữ sắc nhọn đậm chất liên tưởng “cửa son”, “bậc đá”,“lún phún”, “nòng nọc”, “lỗ, hang”, “tùm hum”, “mân mó”,… càng làm tác độngmạnh lên thần kinh cảm giác của người đọc, buộc người đọc không muốn hình dungcũng phải hình dung. Trong thơ của Hồ Xuân Hương luôn tràn ngập những động từmạnh, có những từ bản thân nó đã là động từ mạnh nhưng có lẽ nữ thi sĩ cũng chưavừa ý, bà còn gắn thêm vào nó những phó từ bổ nghĩa mà ta có thể thấy trong bài Tựtình III“Xiên ngang mặt đất rêu từng toạc chân mây đá mấy hòn.”Tự tình IIITừ “ngang” làm cho động từ xiên trở nên cứng chắc, khỏe và động tác trở nên“ngọt” hơn, cũng như “toạc” biến động từ trở nên mạnh mẽ hơn bao giờ hết, nó đâmvút lên chỉa thẳng vào chân mây, làm rách toạc cả bầu trời, mà như không có gì có7thể ngăn cản nổi. Sự thêm thắt đầy sáng tạo này tạo nên chất mạnh mẽ trong thơ HồXuân lẽ đặc biệt nhất trong thơ Hồ Xuân Hương là cách sử dụng từ láy rất mới từ láy có tác dụng diễn tả độ sâu, độ nhoè, thế luồn lách, chông chênh, nhữngcử động nhanh mạnh như “hỏm hòm hom”, “trắng phau phau”, “đỏ lòm lom”, …Chỉ một từ thôi mà có thể diễn tả các chiều của không gian, rộng và sâu hun hút“Bày đặt kìa ai khéo khéo phòmNứt ra một lỗ hỏm hòm hom”Động Hương TíchHay“Trời đất sinh ra đá một chòmNứt làm hai mảnh hỏm hòm hom”Hang Cắc CớĐể diễn tả độ sâu, Xuân Hương dùng hai lần từ “hỏm hòm hom” trong hai bài“Hang Cắc Cớ” và “Động Hương Tích”. Không phải là “hun hút”, “thăm thẳm” màlà “hỏm hòm ho,”âm “o” tròn môi kết hợp với vần “om” càng làm mở rộng thêm độsâu tận cùng của hang, đồng thời cho thấy cả chiều rộng lẫn chiều cao của hangđộng, càng kích thích trí tò mò của con người. Một từ thôi mà đã có thể diễn đạtđược đa chiều của không gian trong khi đó, khi nhìn lại các dòng thơ thời đại đổ vềsau, ta khó mà kiếm ra được những câu thơ đặc biệt đến vậy. Thơ của Huy Cận đãtài tình rồi nhưng vẫn không tránh khỏi dùng nhiều từ chỉ không gian để dẫn giải vềcác chiều không gian“Nắng xuống trời lên sâu chót dài trời rộng bến cô liêu”Tràng giangKhông chỉ tài tình trong cách khắc họa, xây dựng nhân vật và sử dụng từ ngữ độcđáo, “tính dục” trong thơ Hồ Xuân Hương cũng là một trong những thứ góp phầnxây dựng thành công nghệ thuật trào phúng. Đã có rất nhiều ý kiến bàn cãi về thơHồ Xuân Hương và cũng rất nhiều lời nhận định được đưa ra. Liệu thơ của bà cóhay không tồn tại yếu tố “dâm” và “tục”? Tuy thế, có một điều mà không ai có thểphủ nhận được rằng, ẩn sâu dưới từng câu từng chữ trong thơ của bà là một cái gì đórất đỗi đặc biệt để rồi nhận ra nó, tiếng cười sẽ bật ra một cách vô cùng tự Xuân Hương đã rất khéo léo khi lồng ghép những ý tứ “thầm kín” dưới lớpbề nổi của cái “thanh tao”“Một đèo, một đèo lại một đèoKhen ai khéo tạc cảnh cheo leoCửa son đỏ loét tùm hum nócHòn đá xanh rì lún phún rêu” Đèo Ba DộiĐọc bài thơ ta có thể thấy rõ Hồ Xuân Hương đang miêu tả về vẻ đẹp của ĐèoBa Dội. Một đèo Ba Dội với cỏ cây mọc bừa bãi, bước chân lên đèo thì thấy đất đỏdưới chân, hang động cũng màu đỏ thì chẳng có gì khiến ta phải phân vân, nhưngkhi lí giải những dòng thơ của bà dưới góc độ phồn thực, chúng ta sẽ cảm thấy thúvị bởi những hình ảnh tưởng chừng như chân thực ấy lại mang một tầng nghĩa sâuxa, sống động đến kì lạ. Nói mà như không nói, tả mà như không tả mà để người đọctự khơi dậy trí tưởng tượng của mình. Bả không nói toạc ra những điều thầm kín10trong buồng the gác kín mà thông qua các biểu tượng mang tính phồn thực, nữ sĩ gửigắm đa tầng ý nghĩa không đơn thuẩn tả cảnh thiên nhiên. Trong thời đại Nho giáophong kiến khắt khe, những cô gái như Hồ Xuân Hương không được tự do sống thậtvới tình yêu, hôn nhân,.. của chính mình mà ngược lại còn phải chịu sự cưỡng ép, gòbó theo lề lối. Chính vì thế, các bài thơ mang “tính dục” mà đại diện tiêu biểu là HồXuân Hương được sáng tác ra nhằm bày tỏ tiếng lòng, khát vọng giải phóng tìnhcảm, được hưởng hạnh phúc lứa đôi, đồng thời còn là phương tiện để đả kích tầnglớp thống trị mục trong bài thơ “Đánh đu”, Hồ Xuân Hương đã khéo léo đến mức khiến chúngta có thể hình dung rõ ràng từ việc dựng cây đu cho đến cảnh chơi đu của trai, gáithời xưa.“Bốn cột khen ai khéo khéo trồngNgười thì lên đánh kẻ ngồi trôngTrai đu gối hạc khom khom cậtGái uốn lưng cong ngửa ngửa lòngBốn mảnh quần hồng bay phấp phớiHai hàng chân ngọc duỗi song songChơi xuân có biết xuân chăng táCọc nhổ đi rồi lỗ bỏ không !”Đánh đuSự khéo léo, nhịp nhàng của các cặp từ trai – gái, đu - uốn, khom khom cật ngửa ngửa lòng không chỉ gợi sức hút về mặt thẩm mỹ mà còn thông qua đó, ta cóthể cảm nhận được niềm vui của đôi trai gái khi tham gia trò chơi đánh đu trong lễhội làng quê. Đặc biệt từ “cật” ở câu luận là một danh từ chỉ bộ phận cơ thể nhưngđứng sau từ láy “khom khom” nó thường được hiểu là một động từ, vần “at” trắc caonhư các âm gật, bật, lật tạo cảm giác hành động, nhịp nhanh, liên tục... càng chothấy sự hào hứng khi chơi đu. Kông chỉ thế, hình ảnh “hai hàng chân ngọc” được thi11sĩ phác họa hết sức sống động mà không bút vẽ của một họa sĩ nào có thể làm gì có ai vẽ được nên bức tranh đôi hàng chân co duỗi nhịp nhàng đến thế? Cáihay là ở chỗ “đánh đu” mà lại không phải là đánh đu. Một bài thơ với nhiều lớpnghĩa sẽ kích thích, thu hút người đọc, đồng thời, với sự đa tầng nhiều lớp nghĩa,chúng ta sẽ càng thấy rõ tài năng của người phụ nữ tài sắc vẹn toàn “dục” trong thơ Hồ Xuân Hương còn được dùng để đả kích những tên hiềnnhân quân tử đạo mạo, đàng hoàng. Mang danh là thế, nhưng thực chất, khi nhìnthấy vẻ đẹp, thân thể của “thiếu nữ ngủ ngày”“Đôi gò Bồng Đảo hương còn ngậmMột lạch Đào Nguyên suối chửa thông”thì“Quân tử dùng dằng đi chẳng dứtĐi thì cũng dở ở không xong”Thiếu nữ ngủ ngàyChỉ một từ láy “dùng dằng” thôi cũng đủ để lột tả sự phân vân, tranh đầu nội tâmdữ dội nên đi hay nên ở? Đi thì tiếc vì lỡ dịp may lạ lùng, được chiêm ngưỡng tấmthân ngọc ngà nằm trên chõng kia ngàn năm mới có một. Ở thì không xong vì lỡ nhưcó người trông thấy, cũng có thể cô gái kia tỉnh lại, rồi tiếng lành đồn xa chịu sự chêcười. Và cho đến cuối bài thơ, người ta vẫn không biết chàng quân tử ấy quyết định“đi” hay “ở” dù cho cái bản năng rất đời thường của đàn ông ấy nó cứ ngồn ngộnkhông thể kìm chế được. Ta bật cười trước cái sự băn khoăn của anh ta, càng nhìncàng muốn ở lại, mà lại không thể, muốn đi mà lại chẳng đi được. Ôi oái oăm thay!4. Biện pháp tu từMột trong những biện pháp tu từ được sử dụng rất phổ biến trong thơ Hồ XuânHương là biện pháp nói lái. Nói lái là biện pháp tu từ dùng cách đánh tráo phụ âmđầu, vần và thanh điệu giữa hai hay nhiều âm tiết để tạo nên những lượng ngữ nghĩamới bất ngờ, nhằm mục đích châm biếm, đùa vui. ây là hình thức chơi chữ đặc biệt12của các ngôn ngữ phân tiết như tiếng Việt có từ rất lâu đời và thường thấy trong vănhọc dân gian. Nó tồn tại trong những câu ca dao, tục ngữ câu hát của người xưa“Con cá đối nằm trong cối đáCon mèo đuôi cụt nó năm mục đuôi kèo”HayCam sành nhỏ lá thanh ươngNgọt mật thanh đường nhắm lớ bớ anhThanh ương là tuổi mong chờMột mai nhái lặn chà quơ, quơ chà.Ca daoQua bàn tay nhào nặn Hồ Xuân Hương, nói lái trở thành một biện pháp nghệthuật rất đặc trưng trong thơ bà. Ngoài bề mặt nghĩa nổi, nghĩa chìm trong từng từtừng ngữ của bà đều mang nhiều tầng nghĩa hết sức phong phú, để mà khi người tachiêm nghiệm ra, ngoài tiếng cười phá lên đầy thú vị và sảng khoái, người ta còncảm thấy tâm đắc và khâm phục tài nghệ vận dụng lối chơi chữ dân gian đậm đàchất nghệ thuật trong tác phẩm của bà“Cái kiếp tu hành nặng đá đeoLàm chi một chút tẻo tèo teoThuyền từ cũng muốn về Tây TrúcTrái gió cho nên phải lộn lèo”Sư hoạnh dâmXét bề mặt ngữ nghĩa của từng từ đều có ý nghĩa, tạo nên một nội dung thốngnhất, hoàn chỉnh. “Lộn lèo” là dây lèo của thuyền buồm bị ngược gió phải lộn ngượctrở lại, “trái gió” là ngược gió. Tuy nhiên khi lái lại, bài thơ lại tạo nên một lớp nghĩakhác, hoàn toàn không liên quan đến nghĩa gốc tự thân nhưng mục đích vẫn là xoáysâu vào nhân vật được nhắc đến. Luận ra nghĩa thứ hai, các hoạt động đó cũng thuộc13về ông sư, bà vãi, chú tiểu… chứ còn ai vào đây? Tài tình ở chỗ những từ ngữ nàyđều mang nghĩa và không quá sống sượng, chớt nhã, khiêu dục…Ở một góc độ khác, sự tài tình của Hồ Xuân Hương thể hiện ở việc dùng cáctừ thuộc cùng một trường từ vựng trong thơ. Bài thơ Khóc Tổng Cóc, trong 28 chữđã có 5 từ chỉ những con vật thuộc loài cóc “Chẫu chàng”, “nhái bén”, “nòng nọc”,“chẫu chuộc”, “cóc”. Bài “Bỡn bà lang khóc chồng” có rất nhiều từ chỉ các vị thuốc“cam thảo”, “quế chi”, “trần bì”, “thạch nhũ”, “quy thân”, “liên nhục”…cả các từchỉ hành động bào chế thuốc, dụng cụ làm thuốc “sao”, “tẩm”, “dao cầu”… Bêncạnh đó, việc vận dụng thủ pháp ẩn dụ càng làm tăng thêm tính biểu tượng, gợi hìnhcho bức tranh với những đường nét cơ bản mà Xuân Hương phác thảo nên. Mượnhình ảnh ốc nhồi hay quả mít để đả phá đám quân tử đạo mạo, tỏ vẻ thanh caonhưng thực chất chuyên đùa bỡn tình cảm của những cô gái nhà lành và thông quađó, nữ thi sĩ cũng thể hiện ước mơ về hạnh phúc lứa đôi trọn vẹn. “Bánh trôi nước”mà nữ sĩ từng nhắc đến chính là vẻ đẹp hình thể, tâm hồn của người con gái thânphận bé nhỏ, dù cho đời có phũ phàng, xã hội có vùi giập thì “em vẫn giữ tấm lòngson. “Tấm lòng son " là biểu hiện phẩm chất cao đẹp của người phụ nữ trong xã hộiphong kiến “trọng nam khinh nữ" lúc bấy giờ mà không ai có thể đủ sức làm laychuyển LUẬNHồ Xuân Hương đã thổi một luồng gió mới vào nền văn học viết Việt thể nói, bà là một người phụ nữ không chỉ tài hoa mà còn rất gan dạ, dám nóinhững gì cần nói và nói thẳng, nói thật chứ không vòng vo, né tránh. Ngôn ngữXuân Hương sử dụng rất giản dị, dễ nhớ, dễ đọc, phù hợp với tầng lớp bình chỉ thế, bằng ngòi bút xuất sắc của mình, nữ sĩ đã khéo léo đưa nghệ thuậttrào phúng vào thơ văn, nhằm đem lại niềm vui, tiếng cười cho người đọc và cũngthông qua đó, xã hội với đầy rẫy những bất công mà nạn nhân chính là những người14phụ nữ cũng được tái hiện lên. Bản thân Hồ Xuân Hương cũng là người phụ nữ,cũng chịu kiếp làm lẽ nên càng thấm thía nỗi đau. Chính vì thế, thơ văn Hồ XuânHương mang nội dung chân thực và không chỉ thế, tính nghệ thuật cũng rất đậm nghệ thuật trào phúng của bà cũng vô cùng độc đáo và khác LIỆU THAM Giang, Phiếm Luận về thơ Hồ Xuân Ngọc Minh, Đặc điểm tiếng cười trong thơ Nôm truyền tụng thuộc hiệntượng Hồ Xuân Đỗ Lai Thúy, Vấn đề dâm tục trong thơ Hồ Xuân Đỗ Lai Thúy, Lý giải cái dâm cái tục trong thơ Hồ Xuân Hương từ góc độ tínngưỡng phồn Văn, Bản chất thơ Hồ Xuân Nguyên Ân, Tinh thần phục hưng trong thơ Hồ Xuân Minh Triết, Đọc lại thơ Hồ Xuân Hương với cái nhìn nữ quyền Ngọc Thơ, Tiểu luận “Hồ Xuân Hương – Ghẹo cười xuyên thế kỷ”.Nguyễn Thị Ngọc Châu, Luận văn “Vấn đề tính dục trong thơ Nôm Hồ XuânHương dưới góc độ so sánh.”10. Nguyễn Vinh Phúc, Hồ Xuân Hương – Bà Chúa thơ Nhiều tác giả, Hồ Xuân Hươmg – Thơ và đời, 2010. TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ KHOA SƯ PHẠM BỘ MÔN NGỮ VĂN -- NGUYỄN THỊ DIỄM NGHỆ THUẬT TRÀO PHÚNG TRONG “XUÂN HƯƠNG THI TẬP” Luận văn tốt nghiệp đại học Ngành Ngữ văn Cán bộ hướng dẫn PHAN THỊ MỸ HẰNG Cần Thơ, năm 2012 ĐỀ CƯƠNG TỔNG QUÁT PHẦN MỞ ĐẦU  Lí do chọn đề tài  Lịch sử nghiên cứu  Mục tiêu nghiên cứu  Phạm vi nghiê cứu  Phương pháp nghiên cứu PHẦN NỘI DUNG CHƯƠNG 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG  Vài nét về Hồ Xuân Hương và “Xuân Hương thi tập”  Cuộc đời Hồ Xuân Hương  Giới thiệu “Xuân Hương thi tập”  Thời đại  Vài nét về thơ ca trào phúng việt nam Khái niệm trào phúng  Thơ ca trào phúng dân gian  Thơ ca trào phúng thế kỉ XIX  Phân loại đối tượng trào phúng trong “Xuân Hương thi tập”  Đối tượng đạođức giả  Đối tượng sống trái tự nhiên  Đối tượng sống thiếu trách nhiệm CHƯƠNG 2 NGHỆ THUẬT SỬ DỤNG NGÔN NGỮ TRÀO PHÚNG TRONG “XUÂN HƯƠNG THI TẬP” ngôn ngữ với việc thể hiện nội dung trào phúng Nghệ thuật sử dụng tù ghép Nghệ thuật sử dụng từ láy Nghệ thuật sử dụng từ điệp Nghệ thuật sử dụng yếu tố tục Nghệ thuật sử dụng “tử vận” Một số biện pháp tu từ với việc thể hiện nội dung trào phúng Chơi chữ Ẩn dụ Nhân hoá CHƯƠNG 3 NGHỆ THUẬT KHẮC HOẠ HÌNH TƯỢNG TRÀO PHÚNG TRONG “XUÂN HƯƠNG THI TẬP” Cách miêu tả các hình tượng hài hước Thông qua cử chỉ, điệu bộ của các đối tượng trào phúng Thông qua hành động, tính cách của các đối tượng trào phúng Cách miêu tả các hình tượng có tính chất hai mặt gợi sự lien tưởng Thông qua một số hình ảnh trong thế giới tự nhiên Thông qua một số hình ảnh trong cuộc sống sinh hoạt PHẦN KẾT LUẬN TÀI LIỆU THAM KHẢO MỤC LỤC NGHỆ THUẬT TRÀO PHÚNG TRONG “XUÂN HƯƠNG THI TẬP” A. MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Trong suốt chiều dài văn học Việt Nam chúng ta đã có dịp tiếp cận với nhiều nhà văn nhà thơ nổi tiếng. Mỗi tác giả là một đóng góp có giá trị làm nên tiếng nói chung cho nền văn học văn tộc. Khi nhắc đến nền văn học trung đại thì không thể nào không nhắc đến một nhà thơ nữ hết sức tài hoa Hồ Xuân Hương Nhìn lại nền văn học nước nhà chúng ta thấy số lượng các nhà thơ nữ rất ít, đặc biệt là những nhà thơ nữ thật sự có tài, có cống hiến cho nền văn chương của dân tộc. Trong nền văn học trung đại do chịu sự chi phối của những hủ tục, lễ giáo phong kiến khắc nghiệt nên con số đó càng ít hơn. Có thể kể ra đây vài cái tên tiêu biểu Ngọc Hân, Đoàn Thị Điểm, Hồ Xuân Hương; Hồ Xuân Hương được coi là hiện tượng nổi đình, nổi đám gây nhiều tranh cãi hơn cả. Nhiều nhà nghiên cứu khi đi vào tìm hiểu về thơ Hồ Xuân Hương thì đều giữ một khoảng cách nhất định. Vì xung quanh nữ sĩ tài hoa này là tập hợp nhiều câu hỏi mà đến nay chúng ta vẫn chưa có nhiều tư liệu để giải đáp được chính xác. Tuy nhiên điều này cũng không gây trở ngại lớn cho giới nghiên cứu cùng độc giả bởi tất cả những gì mà bà để lại với độ tin cậy nhất cũng đủ sức thu húc, lôi cuốn độc giả nên họ tìm cách tìm hiểu, sưu tầm tư liệu về nữ sĩ ngày càng nhiều. Hồ Xuân Hương đã thật sự đem đến ấn tượng đặc biệt đối với người đọc. Hiện nay thì các công trình nghiên cứu, bài viết về hồ Xuân Hương rất nhiều nhưng các tác giả phần nhiều chỉ đi vào tìm hiểu nội dung, tư tưởng cốt lõi của tác phẩm riêng đối với nghệ thuật vẫn còn nhiều vấn đề chưa được nghiên cứu. Như chúng ta biết thì nghệ thuật trào phúng trong thơ Hồ Xuân Hương là đề tài gần như chiếm một vị trí quan trọng trong thơ bà. Do nội dung của tập thơ có quá nhiều vấn đề gây sự chú ý của độc giả nên phần nghệ thuật nhất là nghệ thuật trào phúng trong thơ chưa được sự lưu tâm tìm hiểu cận kẻ. Các tác giả nghiên cứu chỉ lưu tâm đến ngôn ngữ và một số phương tiện tổ chức lời thơ trong “Xuân Hương thi tập” nói như thế không phải phẩn nghệ thuật trào phúng không quan trọng, thực tế không phải vậy, bởi chính nhờ phần nghệ thuật trào phúng đặc sắc thì mới gây được sự thích thú đối với người đọc. Một tác phẩm văn chương tuyệt tác thì cần có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa nội dung và hình thức nghệ thuật. Đối với độc giả ai đã từng đọc và hiểu ít nhiều về thi sĩ Hồ Xuân Hương cũng như những nhà thơ khác cùng thời với tác giả thì đều có cảm giác chung là thơ của các nhà thơ trung đại khó có thể hiểu và thích ngay được nhưng ngược lại khi đọc thơ của nữ sĩ chúng ta có cảm giác thích thú bởi bà đã đưa đến một hơi thở thơm mát hơn cho văn chương trung đại. Chúng ta biết khá nhiều về thơ Hồ Xuân Hương nhưng mỗi chúng ta không được phép thỏa mãn về những điều mình biết. Sự học là vô bờ bến nên xã hội cần những người biết tìm tòi, học hỏi, đào sâu tri thức để đạt đến thành tựu cao hơn. Là sinh viên ngành Ngữ Văn tôi luôn ước muốn có điều kiện để tìm hiểu nhiều hơn về nhà thơ tài hoa này đồng thời có dịp nâng cao khả nâng nghiên cứu của mình nên tôi đã không ngần ngại chọn “ Đề tài nghệ thuật trào phúng trong Xuân Hương thi tập” cho luận văn tốt nghiệp của mình. 2. Lịch sử nghiên cứu Các ý kiến Ý kiến của Xuân Diệu trong bài “ Nhà thơ dòng Việt bà chúa thơ Nôm” Từ đầu bài viết của mình thì Xuân Diệu đã khẳng định rằng thơ Xuân Hương “có tính chất dân tộc hơn cả” [29,tr270], Thơ Xuân Hương Việt Nam hơn cả vì đã thống nhất được tới cao độ hai tính dân tộc và đại chúng. Bài viết của Xuân Diệu được chia làm hai phần nội dung và nghệ thuật nhưng không có sự phân biệt rạch ròi mà có sự đan cài vào nhau. Vì nhà thơ nữ lúc nào cũng đầy ắp hương vị của cuộc sống, hình ảnh đời thường nên “ thơ Xuân Hương đã làm cho chữ “nôm na” không đồng nghĩa với “mách qué” nữa mà nôm na là đồng nghĩa với thuần túy, trong trẻo tuyệt vời ” [29;tr271]. Riêng về cách dùng chữ thì tác giả khen “ Dùng chữ Việt Nam, phải nhận Xuân Hương là thánh và chữ dùng sắc biết chừng nào ” [29;tr271]. Đối với thể thơ Đường luật thì “Xuân Hương ra cái gương mẫu hoàn toàn nhất về việc dân tộc hóa và đại chúng hóa những điệu thơ vay mượn ở nước ngoài”[29;271] Ở phần cuối thì tác giả chỉ tập trung vào việc so sánh, đối chiếu để tìm ra những điểm tương đồng và dị biệt về nội dung trào phúng của ba tác giả Nguyễn Khuyến, Tú Xương, Hồ Xuân Hương. Bài viết của Xuân Diệu thì ngắn gọn, súc tích, tuy ông chỉ điểm qua một số nét nhưng cũng cho ta thấy được cái tài hoa của ông khi nhìn nhận, đánh giá về thơ Hồ Xuân Hương. Tác giả đã nhìn ra được tài năng của nữ sĩ khi dùng chữ Nôm để sáng tác. Ý kiến của Hoàng Hữu Yên trong bài “Thơ Hồ Xuân Hương” Bài viết của Hoàng Hữu Yên cũng được chia làm hai phần. Phần đầu là lược sử về giai đoạn Hồ Xuân Hương sinh sống và một vài nét về Xuân Hương thi tập; phần hai với tựa đề “Nội dung tập thơ Hồ Xuân Hương” nhưng thực chất có sự xen kẻ giữa nội dung và hình thức nghệ thuật. Khi đi vào nghiên cứu nghệ thuật thơ Xuân Hương tác giả đã nhận xét “Thơ Hồ Xuân Hương là rực rỡ nhất vì hình thức thơ đẹp hơn, dân tộc hơn và đại chúng hơn cả ” [20;tr455] và ông cung dẫn thêm lời nhận xét của Xuân Diệu “ Thơ Hồ Xuân Hương cứ nôm na bình dân, tự nhiên, lời cứ trong veo không gợn, đọc cứ thoải mái dễ thuộc, những câu đối nhau thì cân chỉnh già dặn đến nổi ai cũng phải sợ mà vẫn như lời nói thường ” [20;tr456] Hoàng Hữu Yên cũng tiếp cận thơ Hồ Xuân Hương từ thơ Đường luật như các tác giả khác. Ông đã nêu lên nhận định đầu tiên cũng là dùng một phần nghệ thuật thơ “ Thơ Hồ Xuân Hương là những vần thơ Việt Nam nhất trong dòng thơ Nôm luật Đường ” [20;tr453]. Sau đó thì ông chia sẽ với bạn đọc về một số điểm nổi bật trong nghệ thuật thơ Xuân Hương mà ông đã phát hiện ra “ Về cách cấu tạo thơ, đáng chú ý nhất là biện pháp ngắt nhịp biến hóa rất linh hoạt ít thấy ở thơ luật Đường” [20;456] “ Lời thơ bình dị đến kinh ngạc mà cứ nên thơ. Lời thơ tuôn ra như lời nói thường, không cao đạo, khúc mắc một tý mà niêm luật vẫn phân minh, đối ngẫu rất cân chỉnh, vần điệu uyển chuyển tự nhiên” [20;456] “ Trong thơ ít dùng Điển cố và từ Hán Việ t” [20;456] chủ yếu sử dụng những từ ngữ thông thường nhưng vẫn đảm bảo được giá trị của bài thơ. Về phần ngôn từ trong thơ, ông gọi là tính hình tượng của ngôn ngữ thơ. Trong Xuân Hương thi tập tác giả viết “ Ngôn ngữ giàu âm thanh, nhiều màu sắc, rõ đường nét, hình khối và luôn sống động” [20;457] Ông đã cho rằng sở dĩ Hồ Xuân Hương đã tạo được một phong cách khá đặc biệt là bởi “ Tác giả đã vận dụng mọi giác quan để quan sát, mà quan sát rất tinh, rất thính” [20;458] và còn nhận xét thêm “ Sử dụng mọi giác quan để sáng tác là một bước tiến đáng kể trong sáng tạo nghệ thuật, không phải bất cứ nghệ sĩ nào cũng làm được ” [20;459]. Ở điểm này tác giả đã có nhận xét rất đúng và đó cũng là đặc điểm nổi bật trong thơ Hồ xuân Hương, chính nữ sĩ họ Hồ đã gớp phần rất đáng kể làm cho ngôn ngữ dân tộc, tức là Tiếng Việt văn học phong phú, trong sáng và chính xác hơn. Ngoài ra tác giả cũng có đề cập đến tài gieo vần đó là rất nhiều bài được cấu tạo bằng những “ tử vận” rất khó họa lại như vần om, eo, ênh... Nhìn chung lại thì tác giả đã nêu lên được đặc sắc trong phong cách nghệ thuật thơ Hồ Xuân Hương với rất nhiều dẫn chứng diễn giải. Bài viết của Hoàng Hữu Yên tuy chưa được đầy đủ nhưng cũng có thể coi đó như là một tài liệu nghiên cứu có giá trị sự dụng lâu dài. ý kiến của Đổ Đức Hiểu trong bài “ Thế giới thơ Nôm Hồ Xuân Hương” Trong bài viết của mình thì ông chủ yếu bàn về phương diện nghệ thuật thơ Hồ Xuân Hương. Như ta đã biết thì ngôn ngữ được xem là chất liệu và cũng là phương tiện để tổ chức hay sáng tạo nên các sáng tác văn chương. Đỗ Đức Hiểu đã có định nghĩa khá đặc sắc về ngôn từ trong sáng tác văn học “ Ngôn từ nghệ thuật là một cơ thể sống phức hợp, vận dụng nhiều âm thanh, nhiều màu sắc. Mỗi tiêng là một con kỳ nhông, đứng chỗ này thì màu xanh, đứng chổ khác thì màu nâu hoặc vàng ” [20;303] , không giống với các nhà nghiên cứu khác tác giả chọn riêng cho mình hướng tiếp cận thơ Hồ Xuân Hương từ góc độ cấu trúc biểu đạt. Tuy hướng tiếp cận khác nhưng bài viết của tác giả có điểm chung với một số bài viết khác. Ông cũng xuất phát từ thể thơ Đường luật mà Xuân Hương sử dụng để tìm ra nét độc đáo, sáng tạo trong phong cách thơ của nữ sĩ. Tác giả đã có những nhận xét về thi sĩ họ Hồ “Xuân Hương sáng tạo phong cách thơ Đường luật mới, một thế giới thường thắm tươi, một thiên nhiên tràn đầy sức sống một triết lý tự nhiên của cuộc đời trần thế, của trực giác, cảm giác, bản năng, của say mê. Một cái đẹp góc cạnh và vui tươi của sự vận động hối hả, căng thẳng với nhịp điệu vanxow chóng mặt” [20;305] Từ cấu trúc biểu đạt Đỗ Đúc Hiểu triển khai đến vấn đề động từ hoạt động. Tác giả nhận xét “ Những động từ hoạt động trong thơ Xuân Hương giữ một vị trí đầu não, vị trí chúa tể, nó là cột sống, hòn đá tảng của nhịp thơ, nó có khả năng gây biến động, gây tai biến, bất chợt và hùng hổ ” [20;310] Ngoài ra, ông còn đề cập đến một số điều như nói lái, hình ảnh, tượng trưng, ẩn dụ … là những đặc điểm góp phần làm cho thơ Nôm Hồ Xuân Hương đặc biệt hơn các nhà thơ khác. Đỗ Đức Hiểu còn nhận xét thêm về sáng tác của nữ sĩ Hồ Xuân là hợp lý việc tách rời các yếu tố màu sắc, âm thanh, hình thù, nhịp thơ, từ ngữ, ngữ pháp … trong thơ, tất cả các yếu tố ấy vận hành liên kết với nhau thành hệ thống, thành một khối ” [20;321]. Tác giả đã nhận ra một điều rất quan trong đó là tính thống nhất của các yếu tố trong một hệ thống, cấu trúc của bài thơ để làm nên giá trị cho cả bài. Bên cạnh đó trên cơ sở chỉ ra các môtip “ Hang động, văng vẳng, trắng son, trăng khuya ” [20;tr312] người viết đã có sự phân tích về thanh điệu, về vần, nhịp, câu ….Tuy nhiên tác giả chỉ chủ yếu viết về phần nội dung cho nên những lời bàn luận về nghệ thuật chưa thật đặc sắc. Nhìn chung thì người viết có cố gắng trong việc làm sáng tỏ các vấn đề được đặt ra. Ở phương diện từ loại, mỗi loại từ tác giả đã có sự dẫn chứng, chứng minh, phân tích cụ thể. Tuy nhiên thì trên tổng thể khi xét đến nghệ thuật thì người viết chỉ mới giải quyết một số điểm thuộc về từ còn lại rất nhiều vấn đề khác thì chưa giải quyết rốt ráo được. Đỗ Đức Hiểu cũng chưa cung cấp được cho độc giả cái nhìn chính xác về lớp từ Thuần Việt có nguồn gốc từ cuộc sống, từ văn học dân gian rất phổ biến trong thơ Hồ Xuân Hương. Ý kiến của Lê Trí Viễn trong “ Nghĩ về thơ Hồ Xuân Hương” Giống như giáo sư Nguyễn Lộc, Lê Trí Viễn cũng tiếp cận phong cách nghệ thuật thơ Hồ Xuân Hương từ phương diện thể thơ với bút pháp, biểu hiện, thuyết phục và cuốn hút của Xuân Hương. Tác giả không so sánh riêng Hồ Xuân Hương với Bà Huyện Thanh Quan như Nguyễn Lộc mà có sự mở rộng phạm vi so sánh. Ông đã so sánh giữa thơ Xuân Hương với thơ Nôm luật Đường. Cùng là thể thơ Nôm tuy nhiên “ Thơ Nôm đời Hồng Đức khoác áo quan phương. Đến Xuân Hương, Đường luật mới có đầy đủ tính dân chủ, trần tục và rất độc đáo, nó đã được Xuân Hương hóa ” [19;tr34]. Trong phần phương tiện để tạo nên lời thơ người viết có chú ý đề cập đến vấn đề từ vựng và nghĩa của từ. Tác giả nhận xét “ Từ dùng rất lạ, có khi hiểm hóc cần thì chẳn ngại văng tục, nói lái, ỡm ỡm ờ ờ ” [19;tr35] hay từ bắt chước âm thanh, vận dụng thành ngữ, ca dao. Tác giả cho rằng “ ý nghĩa của từ vừa bao gồm lớp nghĩa cấu trúc hóa tức nghĩa từ vựng và nghĩa cú pháp và đây là nét mạnh sắc, không tiến mà cũng khoáng hậu ” [19;37]. Dù rằng những vấn đề được tác giả đem ra bàn luận không nhiều nhưng bài viết này cũng đạt được những giá trị nhất định, Lê Trí Viễn đã nhận xét một cách khái quát mặt nghĩa của từ trong thơ Hồ Xuân Hương, đây là điểm mạnh làm nên giá trị của mảng thơ trào phúng trong Xuân Hương thi tập. Tuy vậy phần phong cách thơ Hồ Xuân Hương chưa được nổi bật. Riêng về nghệ thuật trào phúng thì cũng được đề cập đến ở một khía cạnh nhất định. Ý kiến của Nguyễn Lộc * Ý kiến của Nguyễn Lộc trong “ Thơ Hồ Xuân Hương” Bài viết của tác giả Nguyễn Lộc có bố cục khá rõ ràng, được chia làm bốn phần tiểu sử tác giả, nội dung của Xuân Hương thi tập, vấn đề tục và dâm, phần kết là nghệ thuật. Trong phần viết về nghệ thuật thơ Xuân Hương tác giả bài viết đã có nhận xét, đánh giá khá sắc sảo. Tác giả đi từ phương diện thể thơ để tiếp cận thơ nghệ thuật thơ Hồ Xuân Hương. Bằng thao tác so sánh, đối chiếu tác giả đã khái quát một vấn đề hết sức quan trọng đó là sự kế thừa và phát huy trong thơ Hồ Xuân Hương. Thể thơ Đường luật mà nhà thơ sử dụng luôn được xem là thể thơ bác học với hệ thống hình ảnh ước lệ, ngôn từ mang tính chất cổ kính. Trường hợp mà tác giả đem ra để so sánh, đối chiếu với phong cách thơ Hồ Xuân Hương không ai khác ngoài Bà Huyện Thanh Quan. Tuy hai nữ sĩ được xem là cùng thời nhưng phong cách thơ của hai người rất khác biệt. Thơ của Bà Huyện Thanh Quan luôn đúng với chuẩn mực thơ Nôm luật Đường trong khi “ Tính chất bác học ấy xa lạ đối với Hồ Xuân Hương, nhà thơ không chấp nhận mà phải cải tạo, làm cho nó đại chúng hơn, bình dân hơn ” [15;tr35-36]. Đi sâu thực tế sáng tác nhà thơ, tác giả bài viết có nhận xét “ Hồ Xuân Hương không phải dân tộc hóa thể thơ Đương mà bình dân hóa nó, vì vậy thơ Đường luật của bà không có vẻ gì đạo mạo, già cỗi, mà nó trẻ trung linh hoạt ” [15;tr36] Để làm thay đổi những điều vốn có đã đi vào quy cũ, nề nếp Xuân Hương đã rất khéo léo, tài tình lựa chọn cho mình nguồn nguyên liệu cùng những phương tiện thể hiện thích hợp. Nguyễn Lộc đã dụng công tìm tòi, nghiên cứu để rồi phát hiện ra rằng “ Chỗ dựa của nhà thơ để thực hiện những sáng tạo của mình là văn học dân gian, là ca dao tục ngữ, là truyện tiếu lâm, là câu đố tục giảng thanh và đố thanh giản tục, …”[15;tr36]. Mặt khác thể thơ Đường chủ yếu được nhằm muc đích gởi gắm, giờ đây được dùng vào cả mục đích trào phúng. Nhìn chung, tác giả Nguyễn Lộc đã làm nổi rõ được một số vấn đề cốt yếu gớp phần làm nên lời thơ trong Xuân Hương thi tập, nhưng nhìn chung tác giả chưa thực sự đi sâu cặn kẽ vào từng vấn đề. Các phương tiện làm nên lời thơ nghệ thuật trong các sáng tác của Hồ Xuân Hương như vấn đề từ loại tác giả chỉ nêu lên một cách chung nhất “ Hồ Xuân Hương dùng ngôn ngữ hằng ngày để làm thơ ” [15;tr36] trong khi đó vấn đề từ vựng ở tập thơ Nôm này là cả một hệ thống phong phú, linh hoạt gồm từ tượng thanh, tượng hình, từ chỉ màu sắc, từ thuần Việt, … Tác giả cũng đã bỏ qua phần biện pháp tu từ nghệ thuật và kết cấu của thể thơ Đường luật được thể hiện qua vần, luật, … Riêng về phần phương thức tổ chức, tác giả bài viết có đề cập đến phần phong cách thơ “ Hồ Xuân Hương thuộc dòng văn học thành văn, nhưng phong cách của bà lại bình dân, và phong cách bình dân ấy ghi đậm nét dấu ấn cá tính của bà ” [15;tr37] thế nhưng người viết chỉ dừng lại đó mà chưa có sự phân tích, chứng minh cụ thể. Tóm lại tác giả chỉ nghiêng về nêu, nhận xét chưa có sự gắn kết với chứng minh, diễn giải để làm cho phần nhận xét thuyết phục hơn. Các vấn đề về nghệ thuật được đề cập, bàn luận đến chưa nhiều, chưa bao quát tuy nhiên chúng ta phải nhìn nhận rằng phần nội dung “ Thơ Hồ Xuân Hương ” tác giả viết rất sâu, có sức thuyết phục cao.  Ý kiến của Nguyễn Lộc trong “ Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XVIII nửa đầu thế kỷ XIX” Có thể nói, Giáo sư Nguyễn Lộc là người có nhiều bài viết có giá trị trong việc tìm hiểu thơ Hồ Xuân Hương. Một lần nữa trong “ Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XVIII nửa đầu thế kỷ XIX ” tác giả đã có những trang viết về nữ sĩ và trong đó có dành một phần để bàn về “ Phong cách thơ Hồ Xuân Hương ”. Xét riêng về phần nghệ thuật, tuy “ Phong cách thơ Hồ Xuân Hương ” chỉ là một phần trong một công trình lớn nhưng nó lại tương đối hoàn chỉnh so với các bài viết khác. Mặc dù công trình nghiên cứu này xuất hiện tương đói sớm nhưng tác giả đã đưa ra được những luận điểm khá sắc sảo. Nguyễn Lộc có nhận xét “ Xuân Hương thuộc dòng phong cách bình dân, nhưng nhà thơ không tan biến trong phong cách ấy, mà sắc thái cá nhân hết sức đậm nét ” [14;tr409]. Để triển khai lời nhận xét trên tác giả đã đi vào đặc trưng cốt yếu nhất trong thơ Nôm Hồ Xuân Hương đó là ngôn ngữ. Thứ nhất vì ngôn ngữ là chất liệu cơ bản nhất của văn chương, và cũng bởi vì ngôn ngữ thơ Xuân Hương có phần đặc biệt hơn cả nên đã gây được sự thích thú cho Nguyễn Lộc cũng như đa số các bạn đọc khác. Đi vào tìm hiểu Xuân Hương thi tập, Nguyễn Lộc viết “ Về ngôn ngữ, có thể nói trong văn học cổ không ai giản dị, dễ hiểu và mộc mạc như Xuân Hương. Ngôn ngữ của Xuân Hương không khác gì ngôn ngữ của ca dao, tục ngữ. Thỉnh thoảng trong thơ bà có đôi từ Hán Việt, thì hầu hết đã được Việt hóa, đã đi vào kho từ vựng phổ biến của Tiếng Việt”. [14;tr410]. Tiếp sau đó tác giả đi vào chứng minh, giải thích cho điều mình nhận định, thông qua đó tác giả khẳng định lại một lần nữa “Xuân Hương có tài khai thác vốn ngôn ngữ súc tích, cô động của ca dao, tục ngữ” [14;tr410], đồng thời tác giả đã đề cập đến khả năng tổ chức lời thơ của Xuân Hương “Trong kiến trúc chung của câu thơ Xuân Hương, những yếu tố ca dao, tục ngữ được đặt đúng chỗ nên rất tự nhiên, nó nhuyễn vào những từ, những câu khác của Xuân Hương làm thành một thể hữu cơ, thống nhất.”[14;tr410] Tác giả cho rằng, ngôn ngữ của Xuân Hương “không câu nệ ở hình thức”, ngôn ngữ thơ của Xuân Hương là “ngôn ngữ của đời sống”, là “một loạt từ ngữ đầu đường xó chợ”, miễn là “các từ ấy nói đúng được cái chất thực của đời sống, của tình cảm”. Người viết nhận xét tiếp “kho từ ngữ của Xuân Hương thường chứa đựng nhiều từ ngữ động, nhiều thức lấp láy có tác dụng khêu gợi cảm giác mạnh, nhiều từ nói láy nghịch ngợm” [14;tr413]. Tác giả đã đưa ra được những dẫn chứng cụ thể để chứng minh cho lời nhận định trên. Trong bài viết này tác giả còn dừng lại để xem xét vần trong thơ Xuân Hương. Cái tài sáng tạo vần của nữ sĩ quả ít có người nào cùng thời sánh kịp. “Xuân Hương con thích dùng những vần oái oăm khó gieo, thi pháp cổ gọi là “tử vận”, những vần chết, nhưng dùng thành công thì bài thơ lại có dáng dấp rất độc đáo” [14;tr414]. Nhìn chung tác giả đã có sự tìm tòi nghiên cứu rất kỹ lưỡng để nêu lên những điểm nổi bật nhất trong phong cách thơ của Hồ Xuân Hương tuy phần phương thức thể hiện chỉ mới đề cập được nguyên tắc điểm nhìn cá thể hóa còn gọi là phong cách của tác giả. Riêng về phần phương tiện sáng tác Nguyễn Lộc đã làm sáng tỏ nhiều điều quanh vấn đề ngôn từ thơ. Mặc dù còn nhiều phương tiện, phương thức tổ chức lời thơ mà tác giả chưa đề cập đến nhưng người đọc cũng như những nhà nghiên cứu khoa học cần ghi nhận đóng góp của Nguyễn Lộc trong bài viết này. Nhận xét Trên đây chỉ là một vài bài viết tiêu biểu cho vấn đề nghệ thuật trong Xuân Hương thi tập . Tuy mỗi tác giả có cách viết, cách nhìn nhận, đánh giá khác nhau nhưng tựu chung vẫn có một số ý kiến tương đồng sau _ Hồ Xuân Hương thuộc dòng văn học thành văn nhưng rất bình dân đồng thời cũng rất dân tộc và đại chúng. _ Hồ Xuân Hương dùng thể thơ Đường luật để sáng tác nhưng đã có sự cách tân và sáng tạo. Nhà thơ đã dân tộc hóa và bình dân hóa thể thơ Đường. _ Ngôn ngữ thơ luôn mộc mạc, giản dị, dễ hiểu nhưng không kém phần cô đọng, hàm súc. _ Xuân Hương đã vận dụng vốn văn học dân gian như ca dao, thành ngữ, tục ngữ trong quá trình sáng tác nhưng không hề có sự rập khuôn mà luôn tạo được dấu ấn riêng. _ Tài năng của Xuân Hương còn được thể hiện qua việc gieo vần và ngắt nhịp. Nhìn chung các tác giả đã đưa ra được những nhận xét, ý kiến có giá trị. Các nhà nghiên cứu đã nhận định đúng được tài năng, bản lĩnh cũng như vai trò của Hồ Xuân Hương trong nền văn học trung đại. Những nhận định, ý kiến đó có ý nghĩa rất quan trọng giúp chúng ta có được cái nhìn toàn diện hơn về nữ sĩ. Bên cạnh một số điểm đã bàn luận và được thống nhất các nhà nghiên cứu chưa thực sự quan tâm nhiều đến nghệ thuật trào phúng rất tiêu biểu trong Xuân Hương thi tập và bà đã sử dụng thành công như biên pháp ẩn dụ, nhân hóa, chơi chữ trong thơ. Những tác giả tham gia nghiên cứu, phê bình chưa thực sự quan tâm nhiều đến mối quan hệ giữa nội dung và hình thức nghệ thuật của một bài thơ. Việc rút ra ý kiến nhận xét từ các bài viết của giới nghiên cứu sẽ giúp cho người thực hiện đề tài này dễ dàng hơn trong quá trình tìm hiểu về “Nghệ thuật trào phúng trong Xuân Hương thi tập”. 3. Mục đích nghiên cứu Hiện nay các bài viết về Xuân Hương thi tập tương đối nhiều thế nhưng vấn đề nghệ thuật trào phúng trong tập thơ vẫn chưa có được công trình nghiên cứu hoàn chỉnh. Chúng ta cũng cần xác định rằng đây là đề tài mang tính chất kế thừa và phát huy, có như vậy ta mới thấy bên cạnh những gì mà người đi trước đã làm được và chưa làm được từ đó chúng ta sẽ cần tập trung nhiều vào khía cạnh nào. Đối với đề tài này người viết thấy đầu tiên ta nên trình bày giới thuyết chung của nghệ thuật trào phúng ở mức độ cơ bản, khái quát nhất. Trên cơ sở lý thuyết có được chúng ta sẽ khai triển, nghiên cứu trực tiếp trên Xuân Hương thi tập. Mục đích của chúng ta là đi sâu nghiên cứu về nghệ thuật, hiệu quả thẩm mĩ nghệ thuật để có thể hiểu được cặn kẽ hơn nội dung, tình cảm cũng như tài năng của nữ sĩ được gởi qua những câu thơ. Vậy yêu cầu của đề tài là phải làm sáng tỏ được những yếu tố, đặc điểm làm nên nghệ thuật trào phúng. Chúng ta có thể bàn đến một số điểm như biện pháp tu từ ẩn dụ, nhân hóa, chơi chữ. Bên cạnh đó ta cũng dành sự chú tâm đến vần, nhịp trong tập thơ Nôm luật Đường này. Cuối cùng phần kết sẽ khái quát lại tất cả các vấn đề đã được trình bày và đề xuất một số vấn đề xung quanh tập thơ. 4. Phạm vi nghiên cứu Bàn về thơ Hồ Xuân Hương có rất nhiều vấn đề đã và đang được sự quan tâm của rất nhiều người. Nhà thơ được nhắc đến bởi hai tập thơ tập thơ chữ Hán “Lưu Hương ký” và tập “thơ Hồ Xuân Hương” bằng chữ Nôm. Do đề tài là “Nghệ thuật trào phúng trong Xuân Hương thi tập” nên vấn đề đã được khu biệt lại, và vì vậy về văn bản ta sẽ chọn tập “Thơ Hồ Xuân Hương” để làm cơ sở nghiên cứu. Tập thơ gồm những bài thơ Nôm nổi tiếng của nữ sĩ Xuân Hương do tác giả Nguyễn Lộc sưu tầm, chọn lọc, biên sọan lại và thường được giới nghiên cứu gọi là “Xuân Hương thi tập” Bên cạnh đó ta vẫn có thể mở rộng so sánh phần thơ nói chung và phần nghệ thuật trào phúng giữa thơ Hồ Xuân Hương với các nhà thơ khác cùng thời như Nguyễn Khuyến. Tú Xương, Nguyễn Bỉnh Khiêm ... để bao quat được giá trị cũng như đặc sắc trong thơ Hồ Xuân Hương. 5. Phương pháp nghiên cứu Để thưc hiện tốt đề tài này người viết phải vận dụng nhiều phương pháp khác nhau. Ngoài công tác sưu tầm, tổng hợp các tài liệu bài viết để làm tư liệu tham khảo người viết cần phải sử dụng phương pháp thống kê trên các bài thơ trong Xuân Hương thi tập để phân loại thơ theo nội dung nhằm tạo được cái nhìn tổng quan hơn. Đồng thời ở mỗi phần nhất là phần đi vào tìm hiểu trên Xuân Hương thi tập người viết cần vận dụng linh hoạt các phương pháp bình, chứng minh, phân tích, tổng hợp vấn đề làm cho bài viết thêm phần thuyết phục. Ngoài ra người viết còn sử dụng biện pháp so sánh để làm cho bài viết đa dạng, phong phú hơn. B. Nội Dung Chương 1 Một số vấn đề chung Vài nét về Hồ Xuân Hương và “Xuân Hương thi tập” Cuộc đời Nữ thi sĩ Việt Nam cho đến nay có nhiều vấn đề về cuộc đời bà chưa được giải quyết. Bà sinh năm nào, mất năm nào, sáng tác chủ yếu vào giai đoạn nào đều chưa biết chính xác. Trước kia các nhà nghiên cứu cho rằng Hồ Xuân Hương sống và sáng tác vào nửa cuối thế kỷ XVIII, chủ yếu là dưới thời Tây Sơn. Nhưng một số tài liệu phát hiện gần đây thì lại cho chúng ta thấy bà sống chủ yếu dưới thời nhà Nguyễn, khoảng nửa đầu thế kỷ XIX. Trước kia đọc giả chỉ biết bà là tác giả của những bài thơ Nôm hết sức độc đáo và sắc sảo, nhưng gần đây có tài liệu cho biết bà còn sáng tác cả thơ chữ Hán. Về cuộc đời của Hồ Xuân Hương, những điều kiện hiện nay chúng ta biết được cũng không lấy gì làm chắc chắn bởi vì không có tài liệu gốc nào để lại. Người ta vẫn lưu truyền bà là người quê làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Ông thân sinh là cụ Hồ Phi Diễn, một ông đồ nghèo bỏ quê ra dạy học ở vùng Hải Dương, Kinh Bắc ngày trước về sau lấy lẽ cô gái họ Hà và sinh ra Hồ Xuân Hương. Gia đình có một thời sống ở phường Khán Xuân, huyện Vĩnh Thuận, gần Hồ Tây, Hà Nội bây giờ. Khi trưởng thành, bà có làm ngôi nhà ở gần Hồ Tây lấy tên là Cổ Nguyệt Đường. Bà thông minh nhưng không được học nhiều, có nhiều bạn trai nhưng con đường tình duyên lại hết sức éo le ngang trái. Lấy chồng hai lần và cả hai lần đều làm lẽ. Căn cứ vào những bài thơ bà viết về các di tích thắng cảnh của đất nước thì biết bà đã từng đi qua nhiều tỉnh đồng bằng và miền núi. Giới Thiệu về “Xuân Hương thi tập” Xuân Hương thi tập là tập thơ khá nổi tiếng của Hồ Xuân Hương, dù rằng đây là tập thơ Nôm do giáo sư Nguyễn Lộc sưu tầm, tập hợp và biên soạn lại với tính chính xác, nhất quán không phải là tuyệt đối nhưng so với các bản khác thì có thể nói đây là tuyển tập tương đối đầy đủ, khách quan và khoa học nhất. Xuân Hương thi tập nói chung là một tập thơ Nôm luật Đường. Bà Huyện Thanh Quan cũng chỉ làm thơ luật Đường. Về sau Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Đình Chiểu, Nguyễn Khuyến, Tú Xương … đã làm rất nhiều thơ Nôm luật Đường. Dòng thơ luật này đã tạo thành một thể loại lớn mạnh. Tuy nhiên thì so trước nhìn sau, mọi người đều thừa nhận rằng thơ Hồ Xuân Hương là rực rỡ nhất vì hình thức thơ đẹp hơn, dân tộc hơn và đại chúng hơn cả. Xuân Diệu đã nêu nhận xét rất đúng và rất hay “Xuân Hương chỉ chuyên dùng thể thơ thất ngôn luật Đường thế mà không phút nào ta nghĩ rằng đó là một điệu thơ nhập nội, thơ Xuân Hương cứ nôm na, bình dân, tự nhiên, lời cứ trong veo không gợn, đọc cứ thoải mái dễ thuộc, những câu đối nhau thì cân chỉnh già giặn đến ai cũng phải sợ mà vẫn như lời nói thường” Tập thơ gồm 40 bài, số lượng bài tuy không nhiều nhưng nội dung của tập thơ khá phong phú. Mỗi vần thơ có thể nói là một phần tâm hồn, con người của tác giả. Nội dung thơ Xuân Hương tuy không phải là tiếng nói đại diện của cả một giai đoạn nhưng cũng đã chứa đựng được những giá trị tư tưởng sâu sắc. Bước đầu đó chỉ là tiếng nói phản kháng cá nhân, là nỗi lòng chua xót, đau đớn của nữ sĩ trước cuộc đời, trước số phận Ngán nỗi xuân đi, xuân lại lại Mảnh tình san sẻ tí con con Tự tình II Thế nhưng đằng sau những lời trách móc. Mỉa mai lại ẩn chứa một tâm hồn nhạy cảm, luôn khát khao có được cuộc sống lứa đôi hạnh phúc, trọn vẹn. Nhà thơ còn rộng mở lòng mình để cảm thông, chia sẻ nổi đau với những người phụ nữ có hoàn cảnh giống mình, những người phụ nữ có cuộc sông lứa đôi dang dở vì một lẽ gì đó Cả nể cho nên hóa dở dang Nỗi niềm chàng có biết chăng chàng Không chồng mà chửa Bên cạnh niềm tâm sự u uẩn, đau đớn của người phụ nữ đa cảm, trong tập thơ còn có những vần thơ đầy màu sắc, thanh âm, đường nét sinh động của bức tranh cuộc sống. Những bức tranh tái hiện lại rõ nét con người và cảnh vật, đời sống sinh hoạt lao động của miền quê Việt Nam. Nếu con người của tâm sự mang vẻ mờ nhạt, u hoài thì con người của cuộc sống lại xinh đẹp, năng động, đầy sức sống của tuổi trẻ Trai đu gối hạc khom khom cật Gái uốn lưng ong ngửa ngửa lòng Bốn mảnh quần hồng bay phất phới Hai hàng chân ngọc duỗi song song Đánh đu Riêng với phong cảnh, vẻ đẹp của quê hương đất nước chắc là chúng ta sẽ khó lòng tìm thấy ở các nhà thơ khác nét độc đáo như trong thơ Nôm của nữ sĩ. Họa tiết, màu sắc, đường nét được tác giả lựa chọn miêu tả mang dáng vẻ riêng, bộc lộ sự tinh nghịch, hay chọc ghẹo có pha chút táo bạo của Xuân Hương. Lườn đá cỏ leo sờ rậm rạp Lách khe nước rỉ mó lam nham Hang Thánh Hóa chùa Thầy Hay như Ở trong hang núi còn hơi hẹp Ra khỏi đầu non đã rộng thùng Kẽm Trống Cảnh trong tập thơ này vừa quen lại vừa lạ, tạo nên sự thích thú tò mò cho độc giả. Hồ Xuân Hương đã thổi một sinh khí mới, sức sống mới làm cho mọi vật dường như được tái tạo lại một lần nữa. Bên cạnh vẻ đẹp của cuộc sống nhà thơ của chúng ta còn thấy được mặt trái của cuộc đời. Nữ sĩ đã nhận ra được sự bất công của xã hội dành cho người phụ nữ. Xã hội phong kiến không thiếu sự xấu xa của bọn mày râu; sự trơ trẽn của bọn hám danh, hám lợi. Xuân Hương ghi nhận và gởi tất cả vào những trang thơ đả kích, châm biếm. Tác giả lên án, phê phán một cách quyết liệt kèm theo đó là thái độ mỉa mai, chế giếu sâu cay. Đôi lúc đó là sự chế giễu đầy ý vị nhưng cũng có lúc lại là những câu nói thẳng thừng Chẳng phải Ngô chẳng phải ta Đầu thì trọc lóc, áo không tà Oản dâng trước mặt dăm ba phẩm Vải núp sau lưng sáu bảy bà Sư hổ mang Có khi bằng lối nói ỡm ỡm ờ ờ, nửa khép nửa mở Xuân Hương đã lôi đến cả ông chúa ngự trên ngai vàng chót vót xuống không thương tiếc để nói lên một điều đơn giản, gần như là chân lí Chúa dấu vua yêu một cái này Vịnh cái quạt II Nhìn chung tác giả đã hướng nhãn quan của mình để bao quát toàn thể cuộc sống. Và có thể do chịu ảnh hưởng nhiều bởi niềm khát vọng sống, quyền được hưởng hạnh phúc chính dáng cùng ao ước vượt ra khỏi khuôn khổ bao đời bó buộc người phụ nữ nên bài thơ nào người đọc cũng thấy phảng phất ý tình sâu xa của tác giả dù rằng có thể đó là bài thơ mang tâm sự buồn thỉu hay là bài thơ mang chất trào phúng. Thời đại Hồ Xuân Hương là thiên tài đặc biệt của dân tộc Việt Nam. Nàng xuất thân ở tầng lớp bình dân. Điều này có ý nghĩa quan trọng, nó giúp chúng ta hiểu rõ hơn về tâm hồn của Xuân Hương bất rễ khá sâu ở đời sống văn nghệ bình dân. Bà không lạ gì với những câu hát, ca dao, tục ngữ, những truyện tiếu lâm, với những câu đố “thanh mà tục, tục mà thanh”. Xuân Hương chịu ảnh hưởng của cuộc sống bình dân nên khi làm thơ thì những cảnh vật, phong tục … của người bình dân hiện lên rõ nét trong thơ bà. Lối thơ tả sự vật diễn đạt tâm tình cũng như lối biểu hiện và phô diễn của nàng đều mang nặng dấu ấn sâu sắc của thể cách bình dân đó. Hồ Xuân Hương sống vào thời Lê Mạc, thời mà các nhà nho thường gọi là “phong hóa suy đồi, cương thường đảo ngược” thời dâm ác của chúa Trịnh Sâm và bè lũ, thời anh giết em, con giết cha, vợ giết chồng … thời đắc thắng của Nguyễn Huệ, của bình dân Việt Nam. Những thời loạn như thế, con người sống không có đảm bảo. Luật pháp, tôn giáo, lễ nghĩa … không đủ sức để che chở con người chống lại những tai họa bất ngờ. Con người chỉ còn biết nghĩ đến mình, nghĩ đến giờ phút hiện tại, nghĩ đến tối thiểu an ninh cho bản thân mình. Lòng khát sống, thèm hưởng thụ nảy nở. Trong các thứ hạnh phúc, chỉ có hạnh phúc vật chất là cái mà con người còn có thể hưởng được ít nhiều. Mặt khác vì không bị luật lệ, luân lý phong kiến ràng buộc nữa, cá nhân con người tự do đi tìm hạnh phúc theo sở thích, mặc dầu tự do ấy vẫn lên những lo sợ, hối hả, ê chề. Tuổi thanh niên của Hồ Xuân Hương phải sống hoàn toàn trong xã hội suy đọa ấy. Lòng khát sống, thèm hạnh phúc ở người đàn bà phiêu lưu đó, kết tinh lại thành một ham muốn hạnh phúc lứa đôi sôi nổi. Đời Hồ Xuân Hương chỉ là một sự tìm chồng. Lẽ dĩ nhiên, trong sự kết tinh ấy, tính chất đặc biệt của cơ thể nàng, của di truyền cũng có tham dự một phần khá lớn. Trong một thời đại mà phong kiến suy đồi như thế thì người đàn bà sống một cuộc đời như thế làm sao tránh được ảnh hưởng của hoàn cảnh về phương diện phát triển tình cảm. Cái hình ảnh một thiếu nữ dâm đảng, xuân tình sớm động chạy theo mộng ước lứa đôi tràn trụa những nét nhục dục, hưởng khoái lạc xác thịt đến đã đời, rồi chấn chường, rên xiết, ai oán vì bất mãn – tôi muốn nói đến cô Kiều của Nguyễn Du – hình ảnh đó cũng được cấu tạo trong thực tế của thời Xuân Hương. Nó đã phần nào phản ánh một cái có thực trong xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XVIII. Tâm hồn phóng đãng, tính nết lăng tằng, đời sống lung tung của Xuân Hương đã ngẹt thở trong trạng thái xã hội phong kiến khôi phục ấy. Trong thơ bà thường có những bài buồn bã ủ ê, thương thân, trách đời, tiếc xuân, nhớ mộng Oán hận trông ra khắp mọi chòm, đó là dấu vết của thời kỳ này. Nhưng Hồ Xuân Hương không phải là một tâm hồn đành chịu sự đè nén của xã hội. Nàng đã vùng dậy chống lại. Những bài thơ chứa những ý tưởng làm rợn tóc gáy các nhà Nho “thị thập tứ hiếu” không có nhưng mà có mới ngoan, là sự phát hiện của sức sống chống đối cực đoan ấy. Thơ Hồ Xuân Hương là một chuỗi tiếng ấm ức, oán hận, nguyền rủa của một con người giàu sức sống bị kìm hãm, yếu nhưng không chịu thua, ngã vẫn không chịu đầu hàng kỷ luật phong kiến. Thơ Xuân Hương là sự đòi quyền sống của con người trong một chế độ áp bức con người, giày xéo con người. Hồ Xuân Hương là hiện thân của sự đòi quyền sống- nhất là quyền hưởng tình yêu và nhục dục. Những con người sung sức ấy là kẻ thù của lễ giáo phong kiến. Hiện tượng Hồ Xuân Hương về phương diện tâm lý là cái mầm hủy thể rất sâu sắc cái ý thức chống phong kiến ở địa hạt tình cảm và sinh lý của bình dân Việt Nam, của những tầng lớp nghèo khổ bị áp bức trong xã hội xưa. Vài nét về thơ ca trào phúng Việt Nam Khái niệm trào phúng “Thơ trào phúng là loại thơ dùng ngôn từ ví von, bóng gió để châm biếm, đả kích những thói hư tật xấu trái với lương tri, đạo đức xã hội.” Trong kho tàng thơ ca Việt Nam, dòng thơ trào phúng rất phong phú, đa dạng và được nhiều người yêu thích. Thơ trào phúng được hiểu theo nghĩa tương đối rộng nên có thể chia thành nhiều loại, trong đó có 3 loại chính. -Loại khôi hài, cười cợt Như bài “ Vịnh Hoàng Cao Khải” của Phan Điện. Hoàng Cao Khải là khâm sai đại thần, được triều đình phong tước Quận công, Phan Điện là nhà thơ trào phúng nổi tiếng ngông nghênh. Cả hai đều cùng quê ở Đức Thọ, bài thơ có những câu như sau Quan như cụ Quận cũng là to To lắm lại càng lắm nổi lo Cụ sướng sao bằng thằng bố Điện Rượu say ôm vợ ngáy kho kho -Loại châm biếm, chế giễu Loại này thường ví von bóng gió để mỉa mai, châm biếm. Bài “Thăm bạn”của Võ Liêm Sơn là một ví dụ Lâu ngày đi thăm bạn Tới ngõ chó xông ra Toàn những con to béo Tiếng sủa như tiếng loa Thấy chó biết gia chủ Bây giờ đã khác xa Thôi, thế là đã rõ Chẳng cần phải vào nhà -Loại phê phán, đả kích Đặc điểm của loại này ít vòng vo, thường dùng biện pháp tả thực để phê phán, đả kích một cách mạnh mẽ, quyết liệt. Bài thơ “cu li” là một ví dụ. Năm Đồng Khánh thứ hai 1887, tại trường thi Hương ở Huế, có một thí sinh làm bài cu li, theo lối từ dán ở cổng trường thi. Bài thơ đả kích từ vua trở xuống và phê phán chế độ giáo dục, thi cữ lỗi thời của triều đình Huế Cu li quan hề, cu li thần Cu li quan hề, cu li dân Cu li tú tài hề, cu li cử nhân Cu li trường thi hề, cu li văn Cu li hề cu li, phi lu hề phi lu Bài này đả kích từ vua trở xuống đều là cu li. Là phường nô lệ, là quân ăn cắp. Ngoài 3 loại kể trên còn có loại thơ “vui là chính”, không châm biếm, chế giễu ai. Nếu có châm biếm thì cũng tự châm biếm mình. Ta thường gặp loại thơ này trong các bài tự trào, tự cười mình là chính. Nhưng loại này cũng được xếp vào thơ trào phúng .Ví dụ có một anh chàng đi công tác ở Plâycu gửi thư về cho vợ, trong đó có hai câu thơ Anh đi công tác Pờ lây Cu dài dằng dặc biết ngày nào ra Tuy chẳng châm biếm ai nhưng suy cho cùng vẫn có sự châm biếm chế giễu anh chàng dốt thơ nên mới có câu thơ trai khoáy như vậy. Việc phân chia thơ trào phúng làm nhiều loại cũng chỉ là cách chia tương đối không thể cố định, rạch ròi. Bởi vì trong khôi hài, cười cợt có châm biếm, chế giễu; trong châm biếm, chế giễu có phê phán, đả kích; trong phê phán, đả kích có khôi hài, cười cợt Đặc trưng của thơ trào phúng là yếu tố gây cười, yếu tố hài hước. Nếu không có hai yếu tố này thì không thể gọi là thơ trào phúng. Tuy nhiên, cười cũng có nhiều kiểu, nhiều cách. Có khi cười thành tiếng, có khi cười thầm không thành tiếng, có khi cười mỉm, có khi chỉ gật đầu. Mỗi một tác giả có một phong cách gây cười riêng. Ở Hồ Xuân Hương thì có sự tinh nghịch, táo tơn. Xin ghi lại bài thơ đả kích Sư hổ mang phá giới; Cái kiếp tu hành nặng đá đeo Vị gì một chút tẻo tèo teo Thuyền Từ cũng muốn về Tây Trúc Trái gió cho nên phải lộn lèo Rất nhiều nhà thơ lớn không chuyên về thơ trào phúng nhưng có những bài thơ trào phúng sâu sắc như Nguyễn Khuyến, Tú Xương, Nguyễn Công Trứ. Xin dẫn bài thơ vịnh cảnh “Lễ xướng danh khoa thi Đinh Dậu- 1897” của Tú Xương. Nhà nước ba năm mở một khoa. Trường Nam thi lẫn với trường Hà Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ Ậm ọe quan trường miệng thét loa Cờ cắm rợp trời quan sứ đến Váy lê quét đất mụ đầm ra Nhân tài đất Bắc nào ai đó Nghoảnh cổ mà trông cảnh nước nhà Tóm lại, so với các thể thơ khác thì thơ trào phúng chỉ chiếm một tỉ lệ rất nhỏ, tựa như một đốm lửa trong rừng thơ. Nhưng đốm lửa đó lại rất sáng, khiến người đọc, người nghe rất dễ cảm nhận và dễ nhớ bởi nó vừa vui, vừa trí tuệ và thiết thực. Đó là những ưu điểm và cũng là thế mạnh của thơ trào phúng. Thơ ca trào phúng dân gian Trang chủ > Thạc sĩ - Cao học > Nông - Lâm - Ngư > Thơ nôm tứ tuyệt trào phúng hồ xuân hương ... Hồ Xuân Hương Vị trí Hồ Xn Hương dòng thơ Nơm Đường luật trào phúng văn học trào phúng thời trung đại Quy mô, số lượng thơ Nôm tứ tuyệt trào phúng Hồ Xuân Hương Chương 2 Thơ Nơm tứ tuyệt ... Nơm Đường luật trào phúng văn học trào phúng thời trung đại 20 Quy mô, số lượng thơ Nôm tứ tuyệt trào phúng Hồ Xuân Hương .27 Chƣơng THƠ NÔM TỨ TUYỆT TRÀO PHÚNG HỒ XUÂN HƢƠNG NHÌN ... tượng Hồ Xuân Hương; quy mô số lượng thơ tứ tuyệt trào phúng Hồ Xuân Hương, nhận thấy mảng thơ tứ tuyệt trào phúng thơ Hồ Xn Hương có vị trí đặc biệt quan trọng Mảng thơ này, đặt vào dòng chảy thơ... 93 1,324 6 Thơ Nôm tứ tuyệt trào phúng Hồ Xuân Hương Luận văn thạc sĩ ... Nơm Đường luật trào phúng văn học trào phúng thời trung đại 20 Quy mô, số lượng thơ Nôm tứ tuyệt trào phúng Hồ Xuân Hương .27 Chƣơng THƠ NÔM TỨ TUYỆT TRÀO PHÚNG HỒ XUÂN HƢƠNG NHÌN ... trọng tâm luận văn thơ Nôm tứ tuyệt trào phúng Hồ Xn Hương Thơ Nơm Hồ Xn Hương có nhiều văn bản, Xuân Hương thi tập, XNB Xuân Lan, 1913, Hồ Xuân Hương thơ đời Lữ Huy Nguyên hàng trăm văn khác Tuy ... trào phúng Hồ Xuân Hương, luận văn góp phần khẳng định vị độc đáo Hồ Xuân Hương tiến trình phát triển thơ ca dân tộc Hồ Xuân Hương người mở đầu cho thơ Nôm tứ tuyệt trào phúng Việt Nam đưa thể thơ... 93 441 2 Phân tích bài thơ "tự tình" của hồ xuân hương ... khơng, Hồ Xuân Hương hiên nang thách thức với tư vô ngạo nghễ Tài tử văn nhân tá Thân đâu chịu già tom Đó Hồ Xuân Hương, người luôn đấu tranh cho bất công ngang trái đời Trong thơ Hồ Xuân Hương ... nhà thơ diễn tả nỗi uất ức xót xa chìm sâu vào tâm hồn nhà thơ đầy bất hạnh Mõ thảm không khua mà cốc Chuông sầu không đánh cớ om Khi phân tích hai câu thơ có nhà nghiên cứu cho Hồ Xuân Hương ... nên tính cách sắc sảo độc đáo tơi thơ Hồ Xn Hương Cái tơi dù đau đớn bất hạnh đến đâu chiến đấu thách thức đến chống lại dư luận bất công xã hội Đọc thơ Hồ Xuân Hương ta cảm nhận bất hạnh cay đắng... 3 937 0 Khảo sát thành ngữ, tục ngữ, ca dao trong thơ Nôm của Nguyễn Trãi và Hồ Xuân Hương ... NÔM CỦA HỒ XUÂN HƯƠNG 45 Đôi nét đời, nghiệp sáng tác Hồ Xuân Hương 45 Thơ Nôm truyền tụng Hồ Xuân Hương 48 Thành ngữ, tục ngữ, ca dao thơ Nôm truyền tụng Hồ Xuân Hương4 9 ... tham khảo phụ lục, phần nội dung luận văn gồm chương Chương 1 Khảo sát thành ngữ, tục ngữ, ca dao thơ Nôm Nguyễn Trãi Chương cung cấp số liệu xác câu thơ, thơ có vận dụng thành ngữ, tục ngữ, ca ... cứu thơ Nôm Nguyễn Trãi tập Quốc âm thi tập thơ Nôm truyền tụng Hồ Xuân Hương Đối tượng nghiên cứu Là câu thơ Nơm có vận dụng yếu tố thành ngữ, tục ngữ, ca dao Nguyễn Trãi Hồ Xuân Hương Phương... 25 2,440 5 Thơ nôm tứ tuyệt từ hồ xuân hương đến trần tế xương ... kết cấu thơ Nôm tứ tuyệt Trần Tế Xương 68 Nghệ thuật ngôn ngữ thơ Nôm tứ tuyệt Hồ Xuân Hương Trần Tế Xương 72 Nghệ thuật ngôn ngữ thơ Nôm tứ tuyệt Hồ Xuân Hương ... ngôn ngữ thơ Nôm tứ tuyệt Trần Tế Xương 76 Nghệ thuật trào phúng thơ Nôm tứ tuyệt Hồ Xuân Hương Trần Tế Xương 82 iv Nghệ thuật trào phúng thơ Nôm tứ tuyệt Hồ Xuân Hương ... thơ Hồ Xuân Hương Trần Tế Xương khơng điều mẻ, sáng tác họ có nhiều tác giả, nhiều cơng trình đề cập đến tiến trình phát triển thơ Nôm tứ tuyệt từ Hồ Xuân Hương đến thơ Nôm tứ tuyệt Trần Tế Xương... 110 366 1 Thơ Nôm tứ tuyệt từ Hồ Xuân Hương đến Trần Tế Xương Luận văn thạc sĩ ... Do vậy, đề tài luận văn Thơ Nôm tứ tuyệt từ Hồ Xuân Hương đến Trần Tế Xương tổng hợp đánh giá tồn diện tiến trình phát triển thơ Nôm tứ tuyệt từ Hồ Xuân Hương đến Trần Tế Xương, khẳng định thành ... ngôn ngữ thơ Nôm tứ tuyệt Trần Tế Xương 76 Nghệ thuật trào phúng thơ Nôm tứ tuyệt Hồ Xuân Hương Trần Tế Xương 82 iv Nghệ thuật trào phúng thơ Nôm tứ tuyệt Hồ Xuân Hương ... thơ Hồ Xuân Hương Trần Tế Xương khơng điều mẻ, sáng tác họ có nhiều tác giả, nhiều cơng trình đề cập đến tiến trình phát triển thơ Nôm tứ tuyệt từ Hồ Xuân Hương đến thơ Nôm tứ tuyệt Trần Tế Xương... 110 298 2 Thơ nôm tứ tuyệt từ hồ xuân hương đến trần tế xương ... vận động phương diện nội dung tư tưởng thơ Nôm tứ tuyệt từ Hồ Xuân Hương đến Trần Tế Xương + Chương Sự vận động phương diện nghệ thuật thơ Nôm tứ tuyệt từ Hồ Xuân Hương đến Trần Tế Xương - Kết ... Do vậy, đề tài luận văn Thơ Nơm tứ tuyệt từ Hồ Xuân Hương đến Trần Tế Xương tổng hợp đánh giá tồn diện tến trình phát triển thơ Nôm tứ tuyệt từ Hồ Xuân Hương đến Trần Tế Xương, khẳng định thành ... thơ Hồ Xuân Hương Trần Tế Xương khơng điều mẻ, sáng tác họ có nhiều tác giả, nhiều cơng trình đề cập đến tiến trình phát triển thơ Nôm tứ tuyệt từ Hồ Xuân Hương đến thơ Nôm tứ tuyệt Trần Tế Xương... 202 340 1 Qua bài thơ Bánh trôi nước, Tự tình II của Hồ Xuân Hương và bài Thương vợ của Trần Tế Xương, anh chị hiểu những gì về thân phận người phụ nữ Việt Nam thủa xưa? ... lấy phải ơng chồng hờ hững có khơng mà thơi Ba thơ đề tài toát lên thân phận nhỏ bé, phụ thuộc đáng thương người phự nữ xã hội phong kiến xưa Nhà thơ Hồ Xuân Hương nhà thơ Trần Tế Xương góp tiếng ... thân cò… chẳng khác chi thân cò thân vạc đáng thương ca dao – dân ca, tượng trưng cho thân phận vất vả, cực nhọc người phụ nữ Bên cạnh nỗi khổ vật chất, bà Tú nỗi khổ tinh thần Bà hết lòng chồng, ... trữ tình thơ khơng tuyệt vọng, khao khát sống mạnh mẽ, ước ao đến cháy lòng hạnh phúc tròn đầy, mong muốn san sẻ bù đắp tình cảm chân thành người với người Bài Thương vợ nhà thơ trào phúng... 2 2,562 13 Bình giảng bài thơ tự tình 2 của hồ xuân hương ngữ văn 11 ... Diệu có câu thơ “ Nói làm chi xn tuần hồn – Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại” Xuân Hương có hai câu thơ nói việc này, quy luật Động từ ngán thể buồn bã chán nản Hồ Xuân Hương mùa xuân trôi mang ... phá phách Xuân Hương mãnh liệt khát vọng tìm hạnh phúc Hai câu thơ cuối nhà thơ nêu lên quy luật tự nhiên vĩnh vô hạn đối lập hữu hạn thiên nhiên người “ Ngán nỗi xuân xuân lại lại Mảnh tình san ... chờ Hỗ Xuân Hương ngậm ngùi san sẻ mối tình Theo quy luật thơng thường tình yêu hai người xã hội cũ mảnh tình san sẻ thành nhiều mảnh, mảnh ghép tình mà khiến cho người phụ nữ buồn bã Mảnh tình... 4 2,143 7 Nghị luận bài thơ tự tình II của hồ xuân hương ... phản kháng mạnh mẽ khát vọng hạnh phúc tha thiết tràn đầy giá trị nhân đạo Bài thơ tiêu biểu cho phong cách thơ Nôm Hồ Xuân Hương ... mục ruỗng xã hội cũ, họ thật bất hạnh Bài thơ thể tâm tư tình cảm người phụ nữ xã hội cũ, tác giả đồng cảm sâu sắc với thân phận người phụ nữ…đồng thời nhà thơ thể tinh thân phản kháng mạnh mẽ ... mạnh tình u lớn lao biết nhường nào, náo xóa bỏ khó khăn niềm tin lý trí tình u, họ sống đời đầy ắp niềm tin hi vọng người phụ nữ có niềm tin to lớn át chế độ hà khắc xã hội cũ “Ngán nỗi xuân xuân... 2 6,737 36 Văn mẫu lớp 11 Phân tích tâm trạng của nhân vật trữ tình trong bài thơ Tự tình 2 của Hồ Xuân Hương ... văn chương Tuy thế, đường tình dun nữ sĩ lại vơ lận đận, lần lấy chồng khơng toại nguyện, mà bà sống tâm trạng cô đơn Bài thơ Kể nỗi lòng Tự tình II có lẽ sáng tác hoàn cảnh Trong ngày lúc hồng ... đời Bài thơ vừa tiếng lòng riêng nữ sĩ, vừa tiếng lòng chung người phụ nữ xã hội phong kiến thuở Qua thấy Hồ Xuân Hương vừa yếu mềm thật ngang tàng mạnh mẽ dám bộc lộ suy nghĩ Bài văn mẫu Hồ Xuân ... thơ tiêu biểu cho hồn thơ phong cách tư tưởng Hồ Xuân Hương đặc biệt vấn đề xoay quanh người phụ nữ Bài thơ trĩu nặng nỗi buồn không hể bi lụy bật lên hết cốt cách cứng cỏi, tâm hổn nhạy cảm mạnh... 5 6,398 29 Cảm nhận bài thơ Tự tình II của Hồ Xuân Hương ... –tử Nhận thức điều đó, nhận thức thự số phận nên XH ngán Câu thơ viết giọng thơ trầm buồn kết hợp với hai chữ lại đứng cuối câu khiến câu thơ tựa tiếng thở dài nề - Tình duyên bà, tình cảm vợ chồng ... lại từ xuân từ lại Từ xuân lặp lại hai lần mang hai nghĩa khác khiến người đọc cảm nhận rõ tâm trạng bi phẫn XH Nếu từ xuân thứ vừa tuổi xuân người phụ nữ vừa mùa xuân thiên nhiên từ xuân thứ ... dang nvtt Thực có vằng trăng trời câu thơ mà thơi vầng trăng bóng xế khuyết chưa xế mà khuyết chưa tròn, giống tuổi xuân Xuân Hương dần mà tình dun khơng trọn vẹn Khép lại hai câu... 3 2,880 14 KẾT CẤU NGHỆ THUẬTBÀI THƠ MỜI TRẦU CỦA NỮ SỸ HỒ XUÂN HƯƠNG ... hiểu lại kết cấu nghệ thuật thơ Chúng tạm thời đưa suy luận sau Hai câu đầu Quả cau nho nhỏ miếng trầu hôi, Này Xuân Hương quệt Đây Hồ Xuân Hương mời trầu mà khoảng thời gian nữ sỹ têm trầu khâu ... phẩm văn học Bài thơ Mời trầu phân tích mặt kết cấu là Hai câu đầu Quả cau nho nhỏ miếng trầu hôi, Này Xuân Hương quệt Đây động tác Hồ Xuân Hương mời khách dùng trầu Hai câu kết Có phải duyên ... chẽ Têm trầu xong mời trầu Lẽ hiển nhiên vậy! Nhưng chỗ cần phải hiểu linh hoạt là Hồ Xuân Hương tay bưng cơi trầu mời khách hai câu sau lời chủ mời khách lời mời đặc biệt, Hồ Xuân Hương -... 5 1,730 3 Xem thêm Bước qua thế kỷ XXI, nhìn lại văn học trào phúng thế kỷ XX vẫn là điều cần thiết và cũng là yêu cầu chính đáng. Tiếng cười của thế kỷ đó tồn tại được là do sự xuất hiện của những cây bút trào phúng sáng giá. Thử hỏi, họ đã cười những gì trong thời đại mà họ đang sống? Tác giả thơ trào phúng Lam ĐiềnTrả ơn đời qua lời thơ châm Nhà thơ trào phúng cự phách Tú Mỡ Người không thích… đùa? Trước hết, "kính lão đắc thọ", xin được mở đầu bằng nhà thơ Nguyễn Khuyến 1835-1909, quê ở Nam Định. Ông xứng đáng là bậc "tiên chỉ" trên vuông chiếu của nền văn học trào phúng thế kỷ XX. Tiếng cười của ông thâm trầm và kín đáo. Tưởng là cười cợt, bông lơn nhưng ẩn sau từng dòng chữ là những giọt nước mắt đau đời. Khi đất nước mất vào tay giặc Pháp, nhân cách lớn của Nguyễn Khuyến là không cộng tác với chúng, lấy cớ mắt lòa. Có lần, ông được mời vào trình diện công sứ Hà Nam, thực chất là để hắn kiểm tra thái độ chính trị. Cũng khăn áo chỉnh tề bước vào dinh, thay vì chào hắn, ông hướng vào mấy cây cột vái mấy cái rồi nói "Lạy cụ lớn ạ!". Mọi người bật cười. Ông xin lỗi mắt lòa, không trông thấy gì rõ cả. Viên công sứ giận tím người, nhưng làm sao bắt bẻ được. Khi chứng kiến Hội Tây được tổ chức hằng năm trên đất nước ta thuở ấy - nhằm mừng ngày cách mạng Pháp ông chỉ thấy "Bà quan tênh nghếch xem bơi trải/ Thằng bé lom khom ghé hát chèo/ Cậy sức cây đu nhiều chị nhún/ Tham tiền cột mỡ lắm anh leo" Hội Tây. Những câu thơ trào lộng này khiến ai đọc cũng ngậm ngùi, cũng tủi nhục, cũng đớn đau khi nhìn lại một giai đoạn bi đát của lịch sử nước nhà. Phải thấm nỗi đau, nỗi nhục ấy, Nguyễn Khuyến mới có thể hạ những câu như từng đường gươm sắc bén. Nhà thơ Tú Xương 1870-1907 là người đời truyền tụng "Kìa ai chín suối Xương không nát/ Có lẽ nghìn thu tiếng vẫn còn". Lời tiên đoán ấy không sai. Tú Xương nổi tiếng đến độ, người ta cho rằng đất Nam Định có hai đặc sản "Đọc thơ Xương, ăn chuối ngự". Tú Xương đã để lại một bản lĩnh thơ, một sự nghiệp văn học để tạo nên cốt cách trào phúng và trữ tình - sau này, nhiều người cũng bắt đầu sự nghiệp văn học bằng chữ "Tú" của Tú Xương. Có lẽ, ông là người có nhiều "môn đệ" nhất Tú Mỡ Hồ Trọng Hiếu, Tú Quỳ Phan Quỳ, Tú Xơn Tout seul chỉ có một mình - Phan Khôi, Tú Nạc, Tú Sụn, Tú Trọc, Tú Da... rồi Tú Kếu Trần Đức Uyển, Tú Lơ Khơ Nguyễn Nhật Ánh, Tú Hợi Lê Minh Quốc... Nhà thơ Tú Xương. Tiếng cười của Tú Xương sâu cay, phản ánh rõ nét những nhố nhăng của cái xã hội buổi giao thời Pháp-Việt. Chẳng hạn, đây là cảnh lễ xướng danh của khoa thi năm 1897 "Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ/ Ậm ọe quan trường miệng thét loa/ Cờ kéo rợp trời quan sứ đến/ Váy lê quét đất mụ đầm ra/ Nhân tài đất Bắc nào ai đó/ Ngoảnh cổ mà trông cảnh nước nhà". Nghe mà ứa nước mắt. Trong số các "môn đệ" của Tú Xương, người nối danh không hổ danh thầy là Tú Mỡ 1900-1976. Tiếng cười độc đáo của ông là biết kế thừa cái hay của các sư phụ đi trước và từ ca dao, tục ngữ. Điều làm nên tên tuổi Tú Mỡ là ông đã cười rất ác vào cái ông nghị... gật mà trước và sau ông chưa có ai vượt qua nổi! Ông đã vẽ những bức chân dung bằng thơ với đường nét tiêu biểu nhất, không lẫn lộn với ai khác. Chẳng hạn, đây là một đoạn trong cảnh khuếch trương của các ông nghị trước khi ra bầu cử, ta thấy có giọng châm biếm hài hước của Tú Xương "Lẳng lặng mà nghe họ diễn thuyết/ Công tâm, công ích, lời tâm huyết/ Phen này mở hiệu viết văn thuê/ Dẫu chẳng làm giàu cũng đỡ kiết/ Họ quẳng tiền ra để cạnh tranh/ Nghe đâu mỗi vé một "rồng xanh"/ Phen này có lẽ mưa ra bạc/ Mà nghị viên ta khỏi phỗng sành" Bầu cử. "Rồng xanh" giấy bạc thời Pháp thuộc. Không rõ, phong thổ của từng vùng đất có ảnh hưởng đến tâm tính hay không, chứ giáp tỉnh Nam Định ở phía Nam là huyện Lý Nhân Hà Nam lại có nhà thơ trào phúng nổi tiếng Kép Trà 1873-1923, tên thật Hoàng Thụy Phương, kém Tú Xương 3 tuổi. Hầu như không một quan tham nào ở Hà Nam thoát khỏi ngọn bút phê phán sắc bén của ông. Sự kiện đáng kể nhất của Kép Trà là đã công khai tấn công bọn "áo mão" mị dân trong lễ kỷ niệm thi hào Nguyễn Du, tối ngày 10-8-1924 tại Hội Khai Trí Tiến Đức Hà Nội. Bài thơ được truyền tụng nhiều nhất của ông là thuật lại buổi lễ đó "Mấy chị đào non cười khúc khích/ Một đoàn mặt trắng huýt lung tung/ Tiên Điền, cụ hỡi hay chăng tá?/ Giỗ cụ, hương trầm bỗng thối hung" Hỏi cụ Tiên Điền. Phan Điện 1874-1945 là cây cười tiêu biểu của Hà Tĩnh. Giống như đàn anh Tú Xương, dù ông văn hay chữ tốt, nhưng khoa thi nào cũng… rớt vì phạm trường quy! Người đầu tiên cười vua bù nhìn Bảo Đại có lẽ là Phan Điện. Khi nhà vua ra Bắc, đi ngang qua huyện Đức Thọ Hà Tĩnh cùng với Nam Phương hoàng hậu, quan lại địa phương cho nam thanh nữ tú xếp hàng đầu rồi giàn hương án để rước đón. Con nít trong làng rủ nhau đi xem "mặt rồng" ầm ĩ nên làm đổ một bức tường, đè chết mấy trẻ nhỏ. Trước sự kiện này, Phan Điện có bài thơ sâu cay "Xiếc vùng Đức Thọ có vui không?/ Cóc nhái hôm nay được thấy rồng!/ Gái đạo phát tài cười tủm tỉm/ Trai lương phải tội chạy long đong/ Mề - đay xiết kể ơn hoàng thượng/ Tường đổ thương thay lũ tiểu đồng/ Đố biết vì ai nên nỗi thế?/ Vì quan sở tại khéo tâng công!" Vì ai?. Đi du lịch miền Trung, đến xứ Huế mộng mơ, chắc hẳn chúng ta sẽ nhớ đến hai câu thơ viết về Huế thuở nước nhà còn nô lệ "Núi Ngự không cây cu ngủ đất/ Sông Hương vắng khách đĩ kêu trời!". Đó là thơ của cây bút trào phúng đất Thần kinh Nguyễn Khoa Vy 1881-1968, hiệu Thảo Am. Tương truyền, thuở nhỏ, có lần ông lẻn vào Tịnh tâm hái trộm trái cây, gặp lúc vua Thành Thái và thị vệ đang ngồi chơi. Biết đây là cậu học trò thuộc dòng khoa bảng Nguyễn Khoa nên nhà vua mới ra đề thử tài. Nhà thơ Nguyễn Khuyến. Làm thơ xong, vua khen hay và thưởng cho vài chiếc kẹo, Nguyễn Khoa Vy nhận ngay rồi quay lưng chạy. Lính lệ bắt lại ghép vào tội vô lễ với Hoàng thượng, Nguyễn Khoa Vy liền đọc bài thơ tạ tội "Đang nghịch không ngờ lại gặp vua/ Còng lưng mà chạy rớt càng cua/ Bây giờ lại được vua ban thưởng/ Cảm tạ đâu nào dám "bonjour"! Không đề. Tiếng Pháp xen lẫn vào bài thơ tiếng Việt thật tự nhiên- cũng là phong cách cười kín đáo, tế nhị của người Huế vậy. Vượt qua đèo Hải Vân vào Quảng Nam, có lẽ ta nên dừng chân lại tâm tình với nhà thơ Tú Quỳ 1828-1926. Thơ trào phúng của ông khá nhiều, tựu trung là đả kích cường hào ác bá và bài trừ mê tín dị đoan... Chẳng hạn đối với những tên Việt gian, cộng tác với giặc Pháp thì ông chưởi xéo qua bài thơ Vịnh con bò khá độc đáo "Vũ trụ không qua đồng cỏ tốt/ Sơn hà khó sánh miếng ăn no/ Thâm sơn ruộng thẳm dơ lưng cạch/ Cắm cổ lôi cày mặc kẻ lo". Đi dần vào phương Nam, ta ắt gặp Phan Văn Trị 1830-1910 không chỉ là một nhà thơ bút chiến số một của Nam kỳ, ông còn là cây bút trào phúng có bản sắc độc đáo. Ông đả kích không khoan nhượng với cái xấu, sự lươn lẹo của bọn Việt gian ngoi lên bằng con đường nịnh nọt giặc Pháp. Hát bội là bài thơ tiêu biểu cho phong cách của ông "Đứa ghẻ ruồi, đứa lác voi/ Bao nhiêu xiêm áo cũng trơ mòi/ Người trung mặt đỏ đôi tròng bạc/ Đứa nịnh râu đen mấy sợi còi/ Trên đỉnh có nhà còn lợp lọng/ Dưới chơn không ngựa lại giơ roi/ Hèn chi chúng nói bội là bạc/ Bôi mặt đánh nhau cú lại thoi". Còn có cả Học Lạc 1842-1915 nữa, tên thật Nguyễn Văn Học. Dù học giỏi nhưng thi không đậu, lại gặp lúc Pháp thực hiện chế độ giáo dục Pháp - Việt nên ông không tha thiết gì đến việc tiến thân bằng khoa cử nữa, bỏ về Mỹ Tho học nghề làm thuốc Bắc kiếm sống. Ngòi bút của ông tấn công không trực diện bọn hương chức tham nhũng qua các bài thơ vịnh Con tôm, Con trâu, Con chó chết trôi... Và đây là một trong những bài thơ tiêu biểu của ông, dù viết về Ông làng hát bội nhưng ai cũng biết là Học Lạc ám chỉ ai "Trong bụng trống trơn, mang cổ giữa/ Trên đầu trọc lóc, bịt khăn ngang/ Vào buồng gọi tổ, châu đầu lạy/ Ra rạp rằng con, nịt thắt mang". Hầu như xuyên suốt thế kỷ XX, ở vùng nào trên đất nước ta cũng có những cây cười tiêu biểu. Sau năm 1945 cho đến năm 1975 ở ngoài Bắc nổi lên những cây thơ trào phúng như Xích Điểu, Thợ Rèn, Nguyễn Đình, Sĩ Giang, Lã Vọng, Búa Đanh, Huyền Thanh, Chính Nghĩa, Búa Tạ, Đặc Công Tiếng cười của các cây bút này vẫn nặng về xây dựng lối sống mới và chủ yếu là đánh kẻ thù xâm lược bằng những thủ pháp sắc sảo, có ấn tượng. Xin giới thiệu một, hai cây bút tiêu biểu nhất, chẳng hạn, nhà thơ Xích Điểu 1913-2003, người Hà Nội. Ngòi bút của ông tập trung châm biếm kẻ thù và phê phán những biểu hiện tiêu cực trong xã hội. Bài thơ Chống tiêu cực làng ta, ông phê thẳng tay "Tưởng đâu thuở trước bọn văn nô/ Rơi rớt thời nay vẫn sót lò/ Anh bảo bút đây vì tập thể/ Thật ra bút bợ cá nhân to/ Bút bic anh xài đỏ đỏ đen/ Tô màu thành tích nỏ cần xem/ Chỉ cần đối tượng anh tâng bốc/ Luôn nhớ anh bằng những tiếng khen"... Nhà thơ trào phúng Thợ Rèn, 1923-2008 tự nhận viết trào phúng để phục vụ nhiệm vụ chính trị kịp thời, phê phán cái xấu trong nội bộ. Một bài thơ tiêu biểu của Thợ Rèn là Tết Tây "Chúc trước tết Tây để tết ta/ Các quan liêm chính bớt ăn quà/ Nể lòng cấp dưới nên khôn nỡ/ Lòng vả lòng sung ta với ta/ Gần tết ngược xuôi khắp mọi miền/ Xe hơi rầm rập phố Trường Yên/ Thời trân thức thức trên xe ấy/ Biết chở về đâu? Lẽ tất nhiên!". Ngoài ra còn có thể kể thêm các anh tài khác như Bút Châm, Hạt Tiêu, Ong Mật, Mực Đỏ, Dương Quân, Thiện Chí… Về các cây bút trào phúng miền Nam 1954-1975, hầu như chưa có chuyên luận nào đề cập đến. Có thể kể đến Tú Trọc, Hà Thượng Nhân, Cả Tếu, Ch. Số Zách, Trạng Đớp, Tú Kếu, Cung Văn, Tú Ngang... Thơ trào phúng của họ có lúc dám cà khịa cả chính quyền Sài Gòn. Và tất nhiên đã thơ trào phúng thì họ không thể bỏ qua các sự kiện thời sự. Lướt qua thế kỷ thơ trào phúng của thế kỷ XX dẫu do dung lượng một bài báo chưa giới thiệu được trọn vẹn nhưng cũng đủ thấy cái kho kiến văn, cái tầm ngạo nghễ của trí thức nước ta quả thật là rộng lớn vô biên.

thơ trào phúng hồ xuân hương