Khóm Cầu Đúc nổi tiếng nhờ vị ngọt thanh, thịt màu vàng sậm, ít xơ, ít nước, ăn giòn và ngọt. Tra cứu giá đất: Quy hoạch xây dựng: Xây dựng đô thị văn minh: Xây dựng nông thôn mới: Bảo vệ môi trường: Hôm nay: 182. Cách Vay Tiền Trên Momo. Hậu Giang từ lâu đã đình đám với ba hàng hóa nòng cốt, đây là bưởi năm roi Phú Hữu, khóm Cầu Đúc và cá thát lát. Trong đó, khóm dứa Cầu Đúc là đặc sản nổi tiếng đã được không ít người nghe biết nhờ vị thơm ngon nổi biệt, ít có những địa điểm nào sánh kịp… Nếu có dịp về xã Hỏa Tiến, thị xã Vị Thanh, tỉnh Hậu Giang, ắt hẳn khách tham quan để được nghe câu vè hài hước Mỗi quả mỗi cây Quả đầy các mắt Lá đầy các răng Nhấp nhô trăm mắt quanh mình Tóc tai tua tủa như hình gươm đao Là 1 trong những 13 tỉnh thuộc Đồng bằng trung du sông Cửu Long nhưng Hậu Giang quanh năm phải chịu ngập phèn, chưa được phù sa bồi đắp như nhiều vùng đất khác. Tuy nhiên, đánh bại các khó khăn về tình huống bỗng nhiên vùng đất đó vẫn sản sinh ra nhiều loại trái cây ngon ngọt. Trong đó, khóm Cầu Đúc được đánh giá như một đặc sản nổi tiếng mà các ai du lịch miền Tây đều không hề từ chối. Điều tra về trái khóm Cầu Đúc Hậu Giang Về xã Hỏa Tiến, thị xã Vị Thanh trong các ngày vào cuối tháng hai tới tháng bốn âm lịch hàng năm, đâu đâu cũng toàn là khóm. Theo lời kể của rất nhiều bác nông dân lớn tuổi ở chỗ này thì khóm Cầu Đúc đã có nhiều mặt tại Hỏa Tiến từ thập niên 30 của thế kỷ trước. Ban đầu chỉ có một trong những hộ trồng nhưng tiếp sau đó cảm thấy khóm ngon, dễ trồng nên cư dân bản địa nhân giống trồng chạy dọc theo kè sông Cái To. Lúc này, xã Hỏa Tiến có một cây cầu đúc xi-măng do thực dân Pháp thành lập bắc ngang sông Cái To. Hàng ngày, bà con mang khóm ra bán dưới chân cầu, thương lái từ khắp điểm đến lựa chọn cũng tập trung tại đó. Lâu ngày thành một chiếc chợ bé dại và tên gọi khóm Cầu Đúc cũng ra mắt từ đó. Khóm Cầu Đúc thuộc giống Queen Nữ hoàng, có nguồn gốc xuất xứ từ Thái Lan. Đặc điểm của giống khóm đấy là trái có diện mạo thanh nhã, mắt lồi, cuống ngắn, hố mắt hơi sâu, lõi bé dại, thịt gold color đậm, ít xơ, ít nước, ăn giòn và ngọt. Khóm Cầu Đúc thường được trồng vào đầu mùa mưa tháng bốn, tháng năm. Nếu trồng bằng chồi thân thì 8 – 10 tháng giải quyết và xử lý ra hoa, còn nếu trồng bằng chồi cuống thì 12 tháng mới giải quyết và xử lý ra hoa. Theo những người dân trồng khóm tại xã Hỏa Tiến thì khóm là loại cây ra hoa trong quy trình không quá lâu. Vì thế, việc xử lí ra hoa cứu rải vụ trong năm là điều thiết yếu để ngăn cản ứ đọng dòng sản phẩm. Thông thường một vụ khóm nối dài từ một tháng rưỡi tới hai tháng. Cuối tháng hai tới vào đầu tháng ba âm lịch hàng năm là thời hạn thu hoạch khóm rộ. Còn nếu giải quyết và xử lý trái vụ, khóm sẽ cho dòng sản phẩm vào tầm tháng bảy, tháng tám. Cây khóm Cầu Đúc khi trưởng thành cao trên 1 mét, khối lượng từ 1,5-2kg/trái, hiệu suất bình quân 20 tấn/ha. Do nổi biệt của thổ nhưỡng nên khóm tại địa chỉ này còn có vị ngọt thanh, ăn ít rát lưỡi. Khóm gọt vỏ xong có gold color rất dễ nhìn, mùi vị ngọt thơm và ăn rất ngon miệng. Đặc biệt, trái khóm Cầu Đúc rất có thể để khoảng 10-15 ngày mà dường như không hư. Từ thời điểm năm 2004, sau lúc tách từ tỉnh Cần Thơ, tỉnh lỵ Hậu Giang được đặt ở thị xã Vị Thanh. Do vậy việc góp vốn đầu tư kỹ thuật, tái tạo giống được gây được sự chú ý nhiều hơn nữa, chất lượng khóm thế cho nên cũng được thổi lên. Trái khóm càng ngày càng lớn, vị ngọt, cùi bé dại, xơ thưa. Khách tới Hậu Giang công tác làm việc hoặc du lịch, sau lúc thưởng thức các dòng sản phẩm từ khóm đều không bao giờ quên mua một chút về biếu người thân. Năm 2006, khóm Cầu Đúc đã được Cục Chiếm dụng Trí tuệ công nhận thương hiệu sản phẩm Khóm Cầu Đúc Hậu Giang. theo đó càng có khá nhiều người nghe biết loại đặc sản nổi tiếng Hậu Giang ngon tuyệt này. Giá trị của trái khóm Cầu Đúc Hệt như bưởi năm roi Phú Hữu, khóm Cầu Đúc được tận dụng từ gốc tới ngọn mà dường như không bỏ sót phần nào. Những dòng sản phẩm từ khóm được cư dân sáng tạo rất phong phú, nhiều mẫu mã và có giá cả kinh tế như nước khóm ép, khóm sấy khô không tẩm đường, mứt, kẹo, rượu, nước giải khát có ga… Lá khóm được áp dụng để chế biến thành sợi, bột giấy. Còn bã khóm tưởng là thứ vứt đi cũng khá được áp dụng làm nguyên vật liệu chế biến thức ăn gia súc. Theo cư dân ở chỗ này thì ngẫu nhiên đám tiệc, lễ, Tết nào cũng xuất hiện sự góp mặt của khóm khóm ăn sống tráng miệng, mứt khóm, gà hấp khóm, la gu khóm… Ngoài ra, trái khóm còn là “linh hồn” của nhiều đồ ăn ngon đậm đà mùi vị đồng quê như thịt ba rọi xào khóm chua ngọt, canh chua khóm nấu với cá rô đồng hay khóm kho với cá he, cá trê, cá mè vinh… Có dịp ghé qua Hỏa Tiến vào các ngày thu hoạch khóm, khách tham quan sẽ thật sự yêu thích khi được thả mình vào không khí lao động rộn ràng khắp địa điểm. Thanh niên tích cực chặt trái. Phụ nữ thì góp nhặt, tỉa ngọn và đẩy lên xe chuyển về. Tại vùng đất nhiễm mặn, nhiễm phèn nặng nề như Hậu Giang, người nông dân chỉ rất có thể sinh sống bằng ba loại cây là khóm, tràm và mía. Nhưng mía thì giá bấp bênh còn cây tràm thì trồng cả chục năm mới thu hoạch mà giá cũng chẳng được bao nhiêu. Chỉ có cây khóm là dễ trồng, kinh phí thấp, ít tốn công và lại cho ăn bền. Chỉ cần rải phân lạnh, ốp gốc không thiếu thốn vào đầu vụ là cư dân rất có thể ăn từ 5 – 7 năm mới tái tạo trồng lại. So với những người dân dân Hậu Giang, cây khóm không riêng gì là một sản vật do thiên nhiên ban tặng ngay mà còn là một gói quà cứu cải sinh kinh tế, giảm hiện trạng đói nghèo. Nhiều hộ dân công việc làm ăn đại phát, con cháu được học tập tới điểm đến lựa chọn chốn cũng nhờ loại cây thấp bé, đầy gai trên vùng đất phèn, mặn này. Sau gần một thế kỷ gắn bó với bà con xã Hỏa Tiến, khóm Cầu Đúc đã có nhiều mặt khắp các thị trường trong cả nước và được xuất khẩu sang nhiều đất nước khác. Hiện toàn xã có khoảng gần 900ha khóm trên diện tích đất canh tác. Vùng Khóm Cầu Đúc cũng được Sở Văn hoá, thể thao và Du lịch tỉnh Hậu Giang chọn để nâng tầm phát triển thành điểm du lịch xã hội. Dự đoán khi hoàn thành xong, địa điểm đây được xem là nơi du lịch lý tưởng cho các ai thích tìm hiểu và tham gia trải nghiệm. Cảnh bà con nông dân đang giao vận khóm. Theo những người dân trồng khóm tại xã Hỏa Tiến thì khóm nếu trồng bằng chồi thân thì 8 – 10 tháng giải quyết và xử lý ra hoa, còn nếu trồng bằng chồi cuống thì 12 tháng mới giải quyết và xử lý ra hoa, thời hạn giải quyết và xử lý ra hoa kha khá dài, thông qua quy trình chăm bẵm của bà con thì việc giải quyết và xử lý ra hoa cứu rải vụ trong năm là điều thiết yếu để ngăn cản dòng sản phẩm bị ùn ứ. Còn nếu giải quyết và xử lý trái vụ thụ khóm sẽ thu hoạch vào tầm tháng bảy, tháng tám. Phương thức trồng khóm khá đơn giản dễ dàng, bà con nông dân chỉ cần đào lỗ, tiếp sau đó ghim cây khóm xuống đất, áp dụng phân hữu cơ cho cây, không áp dụng thuốc hóa học hay ngẫu nhiên loại thuốc trừ sâu nào. Cạnh bên mỗi liếp khóm đều sở hữu một con mương, để khi vào vụ thu hoạch bà con giao vận bằng ghe, rất đơn giản. Khi thu hoạch thì chỉ cần cây dao có cán dài, xắn vào cái cuồi khóm rồi lấy ra. Khóm Cầu Đúc được đánh giá như dẫn chứng cho việc tái tạo đất nhiễm phèn ở vùng giáp ranh giữa Hậu Giang và Kiên Giang. Khóm Cầu Đúc là nguyên vật liệu sử dụng để chế biến các đồ ăn như món khóm xào với thịt rọi chua ngọt, món khóm nấu với cá rô đồng… và còn sinh tồn thể chế biến thành quà mà bạn cũng xuất hiện thể mua về biếu người thân và bạn hữu khi có dịp ghé thăm Hậu Giang. Mùi vị khóm ăn ngọt thanh, ít rát lưỡi, nếu ai đã nếm qua một lần sẽ cảm nhận được nét riêng mà trái khóm địa điểm đây mang đến. Do nổi trội thổ nhưỡng nên khóm tại địa chỉ này còn có gold color rất dễ nhìn, mùi vị ngọt thơm và ăn rất ngon miệng, rất có thể để khoảng 10 – 15 ngày mà dường như không hư, cây khóm trưởng thành cao trên 1 mét, khối lượng từ 1,5 – 2kg/trái. Trái khóm càng ngày càng lớn, cùi bé dại, xơ thưa Chính bởi được góp vốn đầu tư kỹ thuật, tái tạo giống nhiều hơn nữa, chất lượng càng ngày càng được thổi lên. Những dòng sản phẩm từ khóm rất phong phú, sử dụng để chế biến nước khóp ép, sấy khô, mứt, kẹo, rượu, nước giải khát có ga… Ngoài ra, lá khóm được áp dụng để chế biến thành sợi, bột giấy, bã khóm tưởng là thứ vứt đi cũng khá được áp dụng làm nguyên vật liệu chế biến thức ăn gia súc. Người Nam Bộ rất ưa chuộng trái khóm, sử dụng khóm trong các thời điểm dịp lễ, tết để gia công món tráng miệng, gà hấp khóm, la gu khóm… Trái khóm còn sinh tồn giá cả quan trọng, mang mùi vị quê hương, nơi chốn cư dân miền Tây, với các đồ ăn dân giã như Canh chua khóm nấu với cá rô đồng hay khóm kho với cá he, cá trê, cá mè vinh… Giao vận khóm sau lúc được thu hoạch từ ghe lên bờ. Tới với Hỏa Tiến vào các ngày cao điểm thu hoạch khóm, không khó để bắt gặp cảnh bà con quay quồng giao vận, mùi thơm ngào ngạt cả một cánh đồng. Cây khóm dễ trồng, kinh phí thấp, ít tốn công chăm bẵm, không riêng gì là sản vật do thiên nhiên ban tặng ngay mà còn là một gói quà cứu cải sinh kinh tế, giảm hiện trạng đói nghèo, khiến cho vùng đất phèn, mặn này ngày thêm nâng tầm phát triển. Đặc sản quê hương Hỏa Tiến lừng danh khắp bốn phương mỗi một khi nhắc tới Hậu Giang, trái khóm Cầu Đúc mùi vị đậm đà. Chuyên Mục Review Hậu Giang Nguồn Blog Review Du Lịch Đặc Sản Hậu Giang – Khóm Cầu Đúc ArticlePDF AvailableAbstractKhóm Cầu Đúc là một trong những sản phẩm chủ lực của tỉnh Hậu Giang với 04 sản phẩm đã đạt chuẩn OCOP 03 sao. Tuy nhiên, thực trạng sản xuất và tiêu thụ của ngành hàng vẫn còn nhiều hạn chế. Do vậy, nghiên cứu tiến hành phỏng vấn 78 quan sát gồm các tác nhân trong chuỗi giá trị ngành hàng. Bằng cách sử dụng các công cụ phân tích chuỗi giá trị. Kết quả nghiên cứu cho thấy kênh tiêu thụ thông qua thương lái vẫn là kênh chính, chiếm tỷ trọng khoảng 89%, tỷ lệ ký hợp đồng tiêu thụ giữa nông dân với doanh nghiệp còn khá hạn chế. Kênh tiêu thụ thông qua du lịch cộng đồng đã góp phần mang về giá trị gia tăng cao cho người nông dân. Về cơ cấu chi phí sản xuất khóm, kết quả nghiên cứu cho thấy chi phí giống, phân và lao động thuê chiếm tỷ trọng lớn. Để phát triển sinh kế cho nông hộ trồng khóm, tiết giảm chi phí là tất yếu và cụ thể là chi phí giống và đẩy mạnh ứng dụng cơ giới hóa để giảm chi phí thuê mướn lao động. ABSTRACT Cau Duc pineapple is one of the key products of Hau Giang province with 04 products that have been certified as 03-star OCOP. However, the production and consumption of the pineapple industry is still limited. Therefore, the study conducted interviews with 78 observations including actors in the value chain. By using value chain analysis tools, the research results show that the distribution channel through middleman still share the highest proportion, accounting for about 89%, the rate of contract farming between farmers and enterprises is quite limited. Distribution channel through community-based tourism has contributed to bringing high added value to farmers. Regarding the production cost structure of pineapple, the research shows that the cost of pineapple seedlings, fertilizer and hired labor account for a large proportion of the total cost. To develop the livelihoods of pineapple farmers, it is inevitable to reduce production cost, especially seedling costs and to promote the application of mechanization to reduce hired labor costs. Discover the world's research25+ million members160+ million publication billion citationsJoin for freeContent may be subject to copyright. 138 Võ H. Tú, Nguyễn T. Trang. HCMCOUJS-Kinh tế và Quản trị Kinh doanh, 172, 138-151 Giải pháp phát triển chuỗi giá trị khóm Cầu Đúc tỉnh Hậu Giang Solutions to develop the value chain of Cau Duc pineapple industry in Hau Giang Province Võ Hồng Tú1, Nguyễn Thùy Trang1* 1Trường Đại học Cần Thơ, Việt Nam *Tác giả liên hệ, Email nttrang DOI Ngày nhận 10/06/2021 Ngày nhận lại 06/07/2021 Duyệt đăng 22/07/2021 Từ khóa chuỗi giá trị; giá trị gia tăng; khóm Cầu Đúc tỉnh Hậu Giang; kinh tế chuỗi Keywords value chain; value added; Cau Duc pineapple of Hau Giang; chain economic analysis Khóm Cầu Đúc là một trong những sản phẩm chủ lực của tỉnh Hậu Giang với 04 sản phẩm đã đạt chuẩn OCOP 03 sao. Tuy nhiên, thực trạng sản xuất và tiêu thụ của ngành hàng vẫn còn nhiều hạn chế. Do vậy, nghiên cứu tiến hành phỏng vấn 78 quan sát gồm các tác nhân trong chuỗi giá trị ngành hàng. Bằng cách sử dụng các công cụ phân tích chuỗi giá trị. Kết quả nghiên cứu cho thấy kênh tiêu thụ thông qua thương lái vẫn là kênh chính, chiếm tỷ trọng khoảng 89%, tỷ lệ ký hợp đồng tiêu thụ giữa nông dân với doanh nghiệp còn khá hạn chế. Kênh tiêu thụ thông qua du lịch cộng đồng đã góp phần mang về giá trị gia tăng cao cho người nông dân. Về cơ cấu chi phí sản xuất khóm, kết quả nghiên cứu cho thấy chi phí giống, phân và lao động thuê chiếm tỷ trọng lớn. Để phát triển sinh kế cho nông hộ trồng khóm, tiết giảm chi phí là tất yếu và cụ thể là chi phí giống và đẩy mạnh ứng dụng cơ giới hóa để giảm chi phí thuê mướn lao động. ABSTRACT Cau Duc pineapple is one of the key products of Hau Giang province with 04 products that have been certified as 03-star OCOP. However, the production and consumption of the pineapple industry is still limited. Therefore, the study conducted interviews with 78 observations including actors in the value chain. By using value chain analysis tools, the research results show that the distribution channel through middleman still share the highest proportion, accounting for about 89%, the rate of contract farming between farmers and enterprises is quite limited. Distribution channel through community-based tourism has contributed to bringing high added value to farmers. Regarding the production cost structure of pineapple, the research shows that the cost of pineapple seedlings, fertilizer and hired labor account for a large proportion of the total cost. To develop the livelihoods of pineapple farmers, it is inevitable to reduce production cost, especially seedling costs and to promote the application of mechanization to reduce hired labor costs. Võ H. Tú, Nguyễn T. Trang. HCMCOUJS-Kinh tế và Quản trị Kinh doanh, 172, 138-151 139 1. Giới thiệu Nông nghiệp là lĩnh vực quan trọng trong nền kinh tế của Việt Nam, là sinh kế chính của khoảng 70% dân số. Với tổng diện tích đất nông nghiệp cả nước là triệu ha, chiếm khoảng tổng diện tích đất tự nhiên, lĩnh vực nông nghiệp đã đóng góp hơn 24% GDP, sử dụng 47% lực lượng lao động của quốc gia GSO, 2020. Năm 2020, tổng giá trị sản xuất toàn ngành nông nghiệp đạt khoảng 27,705 tỷ đồng, tăng so với năm 2019, trong đó trồng trọt tăng chăn nuôi tăng thủy sản tăng GSO, 2020. Thời gian qua, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng trong lĩnh vực nông nghiệp, nhiều mặt hàng nông sản đã được xuất khẩu sang thị trường khó tính như liên minh Châu Âu, Mỹ, Nhật, … Đồng Bằng Sông Cửu Long ĐBSCL là một trong những khu vực trọng điểm của cả nước về sản xuất nông nghiệp và thủy sản, với tổng diện tích đất tự nhiên khoảng 04 triệu ha và triệu ha đất nông nghiệp, khu vực đã đóng góp hơn 50% tổng sản lượng lúa tương đương 25 triệu tấn và 90% sản lượng gạo xuất khẩu của cả nước và hơn 70% trữ lượng thủy sản GSO, 2020. Tuy nhiên, theo nhiều đánh giá cho thấy sinh kế của người dân sản xuất nông nghiệp vẫn còn gặp nhiều khó khăn C. D. Nguyen, 2011. Hậu Giang là một tỉnh thuần nông, có nhiều lợi thế phát triển nông nghiệp ở vùng ĐBSCL, với khoảng 70% dân số làm nghề nông, tổng diện tích đất nông nghiệp khoảng 141,031ha, trong đó diện tích cây ăn trái chiếm khoảng tổng diện tích đất nông nghiệp toàn tỉnh, khoảng 41,586ha. Diện tích trồng cây có múi là 14,431ha, mít 6,562ha, xoài 3,520ha, khóm 2,744ha, mãng cầu xiêm 762ha, còn lại cây ăn trái khác 13,549ha; Đến nay, tỉnh có 07 sản phẩm cây ăn trái đã xây dựng và đạt chứng nhận nhãn hiệu tập thể gồm Chanh không hạt Hậu Giang, Bưởi năm roi Phú Thành Hậu Giang, Cam xoàn Phụng Hiệp, Cam sành Ngã Bảy, Khóm Cầu Đúc, Quýt đường Long Trị, Xoài cát Hậu Giang. Trong đó, thương hiệu khóm Cầu Đúc Hậu Giang đã được nhiều người tiêu dùng quan tâm và biết đến nhờ vào tính đặc trưng vùng miền và đáp ứng yêu cầu về chất lượng Huy Vu, 2020. Khóm Cầu Đúc là một trong những mặt hàng chủ lực của tỉnh Hậu Giang, diện tích có xu hướng tăng qua các năm nhờ vào thị trường tiêu thụ được mở rộng, cụ thể là sản phẩm đã được xuất khẩu sang các quốc gia như Nga và Đông Âu, và 03 sản phẩm từ khóm gồm Rượu khóm, nước màu khóm và dưa chua củ hủ khóm đã đạt chuẩn OCOP năm 2020 Văn phòng điều phối Nông thôn mới tỉnh Hậu Giang, 2020. Với diện tích khoảng 2,744ha, trồng tập trung chủ yếu ở xã Tân Tiến và Hỏa Tiến thành phố Vị Thanh, năng suất trung bình khoảng 16 tấn/ha, tổng sản lượng đạt hơn 45,000 tấn/năm. Mặc dù ngành hàng khóm Cầu Đúc đã góp phần nâng cao thu nhập, định vị giá trị và thị trường cho ngành hàng nông nghiệp tỉnh Hậu Giang, nông hộ trồng khóm nói riêng và các tác nhân trong chuỗi giá trị ngành hàng nói chung vẫn đang đối mặt với nhiều khó khăn và thách thức trong quá trình sản xuất như kỹ thuật canh tác, quản lý và sử dụng hiệu quả tài nguyên, thu hoạch thủ công, công nghệ chế biến còn lạc hậu và nhỏ lẻ, các kênh phân phối chưa hiệu quả. Do vậy, nghiên cứu được thực hiện nhằm đề xuất các giải pháp phát triển ngành hàng, nâng cao giá trị gia tăng, đa dạng hóa các sản phẩm, từ đó góp phần nâng cao thu nhập cho nông hộ trồng khóm và các tác nhân khác trong chuỗi ngành hàng. 2. Cơ sở lý thuyết Cơ sở lý thuyết về chuỗi giá trịThuật ngữ chuỗi giá trị đã được sử dụng cho các mục đích nghiên cứu khác nhau trong hơn thập niên qua. Phân tích chuỗi giá trị xuất phát từ hai khái niệm riêng biệt. Một là khái niệm “chuỗi” filière ở Pháp 1960s, hai là khái niệm “chuỗi ngành hàng” commodity chains của Wallerstein 1974. 140 Võ H. Tú, Nguyễn T. Trang. HCMCOUJS-Kinh tế và Quản trị Kinh doanh, 172, 138-151 Khái niệm chuỗi giá trị value chain được đề cập lần đầu tiên bởi Porter 1985, là quá trình từ thiết kế sản phẩm, mua vật tư đầu vào, hậu cần, sản xuất, tiếp thị, bán hàng, dịch vụ hỗ trợ và tại mỗi hoạt động, sản phẩm được gia tăng thêm một số giá trị nhất định. Tuy nhiên, chuỗi giá trị của Porter 1985 bị giới hạn ở cấp độ của một doanh nghiệp. Sau đó, Gereffi và Korzenniewicz 1994, Kaplinsky và Morris 2000 đã bổ sung và đề xuất phương pháp tiếp cận toàn cầu về chuỗi giá trị. Theo Kaplinsky 2000, Kaplinsky và Morris 2000, chuỗi giá trị đề cập đến các hoạt động cần thiết cho cả một quá trình từ khi hình thành ý tưởng, đến sản xuất và phân phối đến người tiêu dùng cuối cùng và bỏ đi sau khi đã sử dụng. Theo Kaplinsky và Morris 2000, để một chuỗi giá trị được tồn tại và vận hành hiệu quả thì tất cả các tác nhân tham gia chuỗi phải hoạt động để tạo ra giá trị tối đa trong toàn chuỗi. Khái niệm về chuỗi ngành hàng là cơ sở cho việc phát triển chuỗi hàng hóa toàn cầu bởi Gereffi 1994 và phân phối ngành hàng nông nghiệp Raikes, Jensen, & Ponte, 2000. Mặc dù là hai khái niệm riêng biệt nhưng cuối cùng đều tham gia vào khái niệm chuỗi giá trị toàn cầu GCC và đã đem lại cái nhìn toàn diện về cách thức mà các công ty hay quốc gia ứng phó, thích nghi trong quá trình hội nhập cũng như giúp đánh giá các yếu tố phân phối thu nhập, phương pháp này tập trung vào bốn khía cạnh 1 Cơ cấu đầu vào - đầu ra; 2 Phạm vi đại lí; 3 Cơ cấu quản trị; 4 Bối cảnh và thể chế hoạt động. Dựa vào các phương pháp tiếp cận này, nhiều tổ chức đã ứng dụng vào nghiên cứu trong thực tế và phát triển thành các khung phân tích như FAO hay GTZ. Tổ chức Nông lương Thế giới FAO, 2007 đưa ra khung phân tích chuỗi giá trị tập trung vào hai nội dung chủ yếu Phân tích tài chính và phân tích kinh tế. Tiếp theo đến năm 2007, tổ chức GTZ của Đức đưa ra cách tiếp cận chuỗi giá trị với tên gọi Valuelinks. Kết hợp với cách tiếp cận ValueLinks của GTZ 2007, Ngân hàng Phát Triển Châu Á đã giới thiệu cuốn sổ tay thực hành phân tích chuỗi giá trị với tựa đề “Để chuỗi giá trị hiệu quả hơn cho người nghèo” hay “Nâng cao hiệu quả thị trường cho người nghèo” M4P, 2008. Các nghiên cu liên quan Chuỗi giá trị là cách tiếp cận nghiên cứu vòng đời sản phẩm, cụ thể tập trung từ khâu cung cấp đầu vào đến tiêu dùng cuối cùng, cách tiếp cận này đã được nhiều nhà khoa học trong và ngoài nước, đặc biệt là chuyên gia trong lĩnh vực phát triển nông nghiệp và nông thôn, áp dụng để nghiên cứu cho các lĩnh vực khác nhau, từ nghiên cứu chuỗi giá trị sản phẩm cho các công ty đa quốc gia đến các sản phẩm nông sản. Trên thế giới, các tác giả chủ yếu nghiên cứu mối quan hệ tương tác chuỗi, mức độ tương tác, các yếu tố ảnh hưởng đến mức độ tương tác, và liên kết kinh tế vùng liên kết ngược và liên kết xuôi trong mối quan hệ ngành và liên ngành. Mặc dù có nhiều khái niệm, định nghĩa và cách tiếp cận khác nhau về chuỗi giá trị, chuỗi liên kết, nhưng nhiều kết quả nghiên cứu cho thấy các thành viên càng hợp tác, liên kết với nhau thì chuỗi càng bền vững và phát huy hiệu quả; lòng tin giữa các chủ thể là sức mạnh trong chuỗi Barratt & Oliveira, 2001; Callioni & Billington, 2001; Corbett, Blackburn, & Wassenhove, 1999. Nhiều nhà nghiên cứu trong nước đã ứng dụng phương pháp phân tích chuỗi để xác định qui mô, tình hình sản xuất, chế biến, các kênh phân phối, chất lượng sản phẩm, quá trình hình thành giá, phân tích giá trị gia tăng, gia tăng thuần, thuận lợi và khó khăn của tác nhân tham gia chuỗi nhằm tái phân phối lại lợi ích cho các tác nhân trong chuỗi giá trị ngành hàng nông sản táo, bơ, tỏi, mía, bưởi, rau, … Các nghiên cứu đều cho thấy, trong cơ cấu lợi nhuận thì nông hộ sản xuất chiếm tỷ trọng khá cao nhưng tính theo thời gian canh tác thì họ là tác nhân có tỷ trọng thấp nhất nên thu nhập từ mặt hàng cũng thấp nhất và giá trị gia tăng tạo ra từ sản phẩm cũng thấp nhất trong chuỗi Duong, 2014; Dao, Dao, Ngo, Dang, & Le, 2005; Dao, Dao, Ngo, Dang, & Le, 2006; Hoang, 2014; N. Q. Nguyen, 2015; S. P. Nguyen, 2012; Tran, 2011; Vo & Nguyen, 2009; Vo & Nguyen, 2013b. Võ H. Tú, Nguyễn T. Trang. HCMCOUJS-Kinh tế và Quản trị Kinh doanh, 172, 138-151 141 3. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp chọn vùng và mẫu nghiên cu Theo Cục thống kê tỉnh Hậu Giang 2020, toàn tỉnh có 2,727ha trồng khóm, trong đó thành phố Vị Thanh có diện tích trồng khóm lớn nhất với 1,600ha chiếm diện tích toàn tỉnh và được trồng tập trung tại hai xã Hoả Tiến và Tân Tiến với năng suất trung bình 15 tấn/ha và tổng sản lượng 26 ngàn tấn/năm. Do vậy, nghiên cứu chọn 02 xã Hoả Tiến và Tân Tiến làm địa bàn nghiên cứu. Nghiên cứu đã thực hiện phỏng vấn 78 quan sát được phân thành 05 loại mẫu. Trong đó mẫu cho hộ trồng khóm là 60 quan sát, mẫu cho thương lái là 05 quan sát, mẫu cho nhà máy chế biến/sơ chế là 03, và mẫu cho doanh nghiệp bán lẻ là 10 quan sát. Chi tiết cơ cấu mẫu và phương pháp chọn mẫu được miêu tả trong Bảng 1. Bảng 1 Đối tượng và phương pháp chọn mẫu Phương pháp theo liên kết chuỗi Phương pháp theo liên kết chuỗi Phương pháp theo liên kết chuỗi Phương pháp theo liên kết chuỗi Nguồn Dựa trên thảo luận với cán bộ nông nghiệp huyện và thành phố Đối với nông hộ trồng khóm Để đảm bảo tính đại diện và góp phần thực hiện phân tích, so sánh, nghiên cứu thực hiện phỏng vấn hộ thuộc hai nhóm có tham gia hợp tác xã và hộ không tham gia hợp tác xã. Do thực trạng về số hộ tham gia hợp tác xã còn ít nên cỡ mẫu đối với hộ tham gia hợp tác xã là 15 và hộ không tham gia hợp tác xã là 45. Đối với các tác nhân còn lại nghiên cứu phỏng vấn theo phương pháp theo liên kết chuỗi của GTZ 2007. Thương lái Qua tìm hiểu sơ bộ nông hộ không tham gia hợp tác xã thì thương lái mua khóm có người trong và ngoài tỉnh nhưng chủ yếu là thương lái trong tỉnh vì thương lái ngoài tỉnh chỉ tham gia mua khi giá khóm lên cao còn giá bình thường và xuống thấp thì chủ yếu là thương lái trong tỉnh Hậu Giang. Nhà máy chế biến/sơ chế Nghiên cứu thực hiện phỏng vấn 03 cơ sở chế biến sản phẩm khóm Cầu Đúc gồm Cơ sở sản xuất Trường Thọ, Công ty LeFruit, Doanh nghiệp tư nhân Minh Dũng. Người bán sỉ và lẻ chức năng thương mại Ngoài tỉnh phỏng vấn ở Thành phố Cần Thơ và Vĩnh Long; trong tỉnh phỏng vấn tại Thành phố Vị Thanh. Phương pháp phân tích số liệu Nghiên cứu sử dụng phương pháp chính là phân tích chuỗi giá trị, tiến trình thực hiện được mô tả theo ba bước sau 1 thứ nhất là lập sơ đồ chuỗi giá trị; 2 mô tả và lượng hóa chuỗi giá trị; và 3 thực hiện phân tích kinh tế chuỗi, kết quả đánh giá GTZ, 2007. 142 Võ H. Tú, Nguyễn T. Trang. HCMCOUJS-Kinh tế và Quản trị Kinh doanh, 172, 138-151 Bước 1 Lập sơ đồ chuỗi được thực hiện nhằm mô tả bức tranh toàn diện và tổng thể về hoạt động của toàn chuỗi giá trị sản phẩm theo các nội dung 1 chức năng và các khâu trong chuỗi; 2 các tác nhân trong chuỗi; 3 kênh thị trường của chuỗi và; 4 các tổ chức hoặc đơn vị hỗ trợ chuỗi. Bước 2 Phân tích kinh tế chuỗi Nhằm phân tích chi phí lợi ích của từng tác nhân trong chuỗi giá trị ngành hàng khóm Cầu Đúc. Để bảo đảm sự thống nhất trong tính toán, việc qui đổi các sản phẩm về một hình thái chung của sản phẩm cho tất cả các khâu trong chuỗi khi thực hiện phân tích kinh tế chuỗi là rất cần thiết vì thông thường sản phẩm ở các khâu hay các tác nhân trong chuỗi là khác nhau. Các công thức tính toán trong nghiên cứu này được áp dụng theo Vo và Nguyen 2013a. Khi sử dụng công cụ này cần hiểu rõ các khái niệm sau 1 Giá trị là giá bán sản phẩm cho mỗi tác nhân; 2 Giá trị gia tăng giữa hai tác nhân phản ánh sự chênh lệch giá bán sản phẩm giữa hai tác nhân; 3 Giá trị gia tăng VA - Value Added của từng tác nhân được tính toán thông qua sự chênh lệch giữa giá bán và chi phí trung gian IC - Intermediate Cost; 4 Chi phí đầu vào hoặc chi phí trung gian là giá mua các nguyên vật liệu đầu vào của tác nhân sau đối với các tác nhân trước đó; 5 Chi phí tăng thêm AC - Added Cost là toàn bộ chi phí còn lại lao động, khấu hao, tiền lãi, thuế ngoài chi phí trung gian; 6 Tổng chi phí TC - Total Cost là chi phí đầu vào hoặc trung gian cộng với chi phí tăng thêm; 7 Giá trị gia tăng thuần NVA - Net Value Added hay còn gọi là lợi nhuận của mỗi tác nhân được tính bằng cách lấy giá bán trừ tổng chi phí; và cuối cùng phần trăm lợi nhuận của mỗi tác nhân trong toàn chuỗi sẽ phản ánh sự phân bổ giá trị gia tăng thuần. Giá trị gia tăng = Giá bán * Số lượng – Chi phí trung gian 1 Giá trị gia tăng thuần = Giá trị gia tăng – Chi phí tăng thêm 2 Tổng chi phí = Chi phí tăng thêm + Chi phí trung gian 3 4. Kết quả nghiên cứu và thảo luận Đặc điểm và vai trò của các tác nhân trong chuỗi giá trị Chuỗi giá trị sản phẩm khóm Cầu Đúc tỉnh Hậu Giang được vận hành với sự tham gia của các tác nhân trực tiếp thực hiện các chức năng như sản xuất, thu gom, sơ chế, thương mại và cuối cùng là tiêu dùng. Bên cạnh đó, chuỗi giá trị khóm Cầu Đúc Hậu Giang còn có các tác nhân hỗ trợ khác như nhà cung cấp đầu vào, các cơ quan hỗ trợ về tài chính, kỹ thuật trong quá trình sản xuất, chế biến và tiêu thụ. Đối với nông hộ sản xuất Nhìn chung, khóm Cầu Đúc tỉnh Hậu Giang có 02 vụ/năm và thời gian sản xuất bình quân 04 tháng/vụ, vụ thu hoạch chính vào cuối tháng 02 đầu tháng 03, vụ nghịch khoảng tháng 07 - 08; Đa phần nông hộ chọn giống Queen do ít xơ, ngọt thanh, giòn ngọt, đặc biệt có thể bảo quản dễ dàng trong khoảng 10 - 15 ngày, trọng lượng trái trung bình từ - 02 kg/trái. Nông hộ trồng khóm thông qua hai hình thức chính là chồi thân 08 - 10 tháng mới xử lý ra hoa và chồi cuống 12 tháng mới xử lý ra hoa với mật độ trồng trung bình cây hom giống/m2, giá giống trung bình 200 đồng/hom giống, diện tích trung bình ha/hộ lớn nhất 5ha và nhỏ nhất với năng suất trung bình 16 tấn/ha. Một số bệnh thường gặp trên khóm gây ảnh hưởng đến năng suất là chết bụi 55%, rệp sáp đỏ lá khô đầu lá và thối gốc 5%, … Đa phần nông hộ không tham gia vào hợp tác xã mà chỉ sản xuất nhỏ lẻ thiếu sự liên kết cũng như không tham gia các lớp tập huấn chiếm để nâng cao kỹ thuật canh tác. Nông hộ sản xuất bán khóm chủ yếu cho thương lái trong tỉnh chiếm một phần bán trực tiếp cho người tiêu dùng trong tỉnh hoặc khách du lịch và cuối cùng là bán cho hợp tác xã Võ H. Tú, Nguyễn T. Trang. HCMCOUJS-Kinh tế và Quản trị Kinh doanh, 172, 138-151 143 Thương lái Chủ yếu là người có địa bàn trong tỉnh, độ tuổi trung bình là 40, chủ yếu là nam giới chiếm 80%, trình độ học vấn trung bình khoảng lớp 10. Hình thức thanh toán trong mua bán chủ yếu là tiền mặt. Thương lái mua theo hình thức phân loại sản phẩm loại 1, loại 2, loại 3. Loại 1 từ 01 kg/trái trở lên và chỉ chín 01 - 02 mắt; loại 2 dưới 01 kg/trái, 02 trái loại 2 sẽ gom về loại 1 chỉ chín 01 - 02 mắt; loại 3 khóm đã chín hết. Tùy vào yêu cầu của khách hàng mà thương lái sẽ phân loại khóm cho phù hợp với yêu cầu. Cơ sở chế biến Cơ sở chế biến mua khóm từ chủ vựa và các nông dân, tỷ lệ từ chủ vựa chiếm khoảng và từ nông dân chiếm tỷ lệ khoảng Trong đó, các cơ sở chế biến nhỏ trong nước thì mua khóm dạt của chủ vựa, chủ yếu khóm loại 3 chín dạt để chế biến thành nước màu khóm 20kg khóm dạt để sản xuất ra 01 lít nước màu giá bán 300 ngàn đồng/lít và 07kg khóm chín dạt để sản xuất ra 01 lít rượu khóm với giá 150 ngàn đồng/lít. Sản phẩm nước màu khóm và rượu khóm được công nhận là sản phẩm OCOP đạt 03 sao của tỉnh Hậu Giang. Đối với các cơ sở chế biến lớn như Minh Dũng, LeFruit thì chế biến để xuất khẩu là chính, chiếm tỷ lệ thu mua từ nông dân khoảng Người bán sỉ Mua khóm từ thương lái trung bình 226 tấn/năm; giá bán trung bình là 14 ngàn đồng/kg khóm tươi. Người bán lẻ Mua khóm từ người bán sỉ để bán lại cho người tiêu dùng cuối cùng trong nước. Sơ đồ chuỗi giá trị Khóm Cầu Đúc tỉnh Hậu Giang Sơ đồ chuỗi giá trị sản phẩm khóm Cầu Đúc góp phần phản ánh bức tranh tổng thể và toàn diện của ngành hàng từ khâu đầu vào, sản xuất, chế biến, thương mại và cuối cùng là phân phối đến người tiêu dùng cuối cùng. Trong mỗi khâu của chuỗi, các tác nhân trong chuỗi đã góp phần bổ sung giá trị gia tăng cho thành phẩm cuối cùng. Chuỗi giá trị sản phẩm khóm Cầu Đúc tỉnh Hậu Giang được vận hành qua nhiều kênh thị trường nhưng có 05 kênh chính. Nông hộ bán khóm cho thương lái, chủ vựa, và cơ sở chế biến; thương lái sẽ bán khóm tươi cho người bán sỉ, chủ vựa phân loại khóm dạt loại 3 bán cho cơ sở chế biến nhỏ trong tỉnh để sản xuất rượu khóm, nước màu khóm, ... Vì vậy trong nghiên cứu này đề tài sẽ tập trung phân tích giá trị gia tăng của 03 nhóm là khóm tươi, nước màu khóm và rượu khóm. 144 Võ H. Tú, Nguyễn T. Trang. HCMCOUJS-Kinh tế và Quản trị Kinh doanh, 172, 138-151 Hình 1. Sơ đồ chuỗi giá trị khóm Cầu Đúc tỉnh Hậu Giang Nguồn Kết quả điều tra 2020, n = 78 Kênh 1 Nông dân Thương lái Người bán sỉ Người bán lẻNgười tiêu dùng Qua khảo sát cho thấy, Kênh 1 tiêu thụ phần lớn sản phẩm khóm tươi trong chuỗi, nông dân bán lượng khóm tươi cho thương lái. Từ đây, thương lái bán tất cả lượng khóm tươi cho người bán sỉ và sau đó là người bán lẻ trong và ngoài tỉnh, cuối cùng người bán lẻ bán trực tiếp khóm tươi cho người tiêu dùng. Kênh 2 Nông dân Chủ vựa Cơ sở chế biến Xuất khẩu Sau khi thu hoạch khóm, nông dân bán cho chủ vựa Chủ vựa bán cho cơ sở chế biến trong và ngoài tỉnh như Minh Dũng, LeFruit, Westfood, Tiến Thịnh để tiến hành chế biến và xuất khẩu. Kênh 3 Nông dân Chủ vựa Cơ sở chế biến Người tiêu dùng Nông dân sau khi thu hoạch khóm sẽ bán cho chủ vựa Chủ vựa kết hợp với lượng mua từ nông dân và phân loại khóm dạt để bán cho các cơ sở chế biến nhỏ để tiến hành chế biến khóm thành rượu khóm và nước màu khóm để bán cho người tiêu dùng trong tỉnh. Xuất 100% 100% Sở Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn Trung tâm Khuyến nông Sản Thu gom Chế Thương mại Tiêu nông Phân bón, Thuốc BVT, Nông dân/ Chủ Thương Lái biến tiêu Võ H. Tú, Nguyễn T. Trang. HCMCOUJS-Kinh tế và Quản trị Kinh doanh, 172, 138-151 145 Kênh 4 Nông dân Cơ sở chế biếnNgười tiêu dùng Kết quả nghiên cứu cho thấy khoảng sản lượng khóm từ nông dân, chủ yếu là giống khóm MD2 được nông dân canh tác và sau đó bán cho các cơ sở chế biến để tiến hành chế biến và xuất khẩu sang thị trường nước ngoài. Kênh 5 Nông dân Người tiêu dùng Nông dân bán trực tiếp khóm tươi cho người tiêu dùng trong tỉnh và khách du lịch chiếm khoảng Phân tích kinh tế chuỗi Cơ cấu chi phí sản xuất khóm Kết quả khảo sát cho thấy chi phí sản xuất khóm rất đa dạng, bao gồm chi phí thuốc bảo vệ thực vật, phân bón hóa học và cây hom giống giống, chăm sóc lao động, … trong đó chi phí giống chiếm tỷ trọng cao nhất, khoảng chi phí phân bón chiếm khoảng chi phí lao động thuê cũng chiếm tỷ trọng khá lớn, khoảng Bảng 2 Cơ cấu chi phí sản xuất khóm của nông hộ Đơn vị tính 1,000 đồng Trung bình 1,000 đồng/kg 2. Năng suất kg/1,000m2 5. Giá trị gia tăng [3 - 4] Chi phí khác điện, nhiên liệu, … 7. Tổng chi phí [4 + 6] 8. Giá trị gia tăng thuần 5 - 6 Nguồn Kết quả khảo sát 2020, n = 60 Ghi chú Hạch toán được thực hiện cho 1,000m2 Giá trị gia tăng và gia tăng thuần của các kênh và tác nhân trong chuỗi Nghiên cứu phân tích 05 kênh chính của chuỗi giá trị khóm Cầu Đúc nhằm xác định được giá trị gia tăng và gia tăng thuần của từng tác nhân trong chuỗi. Phân tích kinh tế chuỗi được qui đổi theo tỷ lệ cơ sở chế biến nước màu thì 20kg khóm = 01 lít nước màu và 07kg khóm = 01 lít rượu khóm. 146 Võ H. Tú, Nguyễn T. Trang. HCMCOUJS-Kinh tế và Quản trị Kinh doanh, 172, 138-151 Trong phân tích kinh tế chuỗi thì khóm được qui đổi về nước màu và rượu khóm với tỷ lệ qui đổi lần lượt là 01 Đối với các sản phẩm nước ép khóm thì trung bình 01kg khóm tươi sẽ cho ra khoảng 300 gram nước ép. Đối với khóm đóng hộp thì tỷ lệ này đạt khoảng 57%. Trong trường hợp nghiên cứu này, có 05 kênh chính được lựa chọn để thực hiện phân tích kinh tế chuỗi, cụ thể kết quả phân tích được trình bày ở Bảng 3 sau Bảng 3 Phân phối giá trị gia tăng, gia tăng thuần của các tác nhân Đơn vị tính 1,000đồng/kg Kênh 1 Nông dânThương lái Người bán sỉNgười bán lẻNgười tiêu dùng Kênh 2 Nông dân  Chủ vựa  Cơ sở chế biến  Xuất khẩu Kênh 3 Nông dân  Chủ vựa  Cơ sở chế biến  Người tiêu dùng Võ H. Tú, Nguyễn T. Trang. HCMCOUJS-Kinh tế và Quản trị Kinh doanh, 172, 138-151 147 Kênh 4 Nông dân  Cơ sở chế biến  Người tiêu dùng Kênh 5 Nông dân  Người tiêu dùng Nguồn Tác giả tính toán từ kết quả điều tra 2020, n = 78 Tóm lại Qua kết quả phân tích 05 kênh phân phối trong chuỗi giá trị ngành hàng khóm Cầu Đúc tỉnh Hậu Giang cho thấy khi xem xét giá trị gia tăng và gia tăng thuần của 01kg khóm tươi thì nhà máy chế biến chiếm tỷ lệ cao nhất, tiếp theo là nông dân và cuối cùng là thương lái và chủ dựa. Nông dân tiêu thụ khóm thông qua hai kênh chính là thương lái và chủ vựa. Kết quả này 148 Võ H. Tú, Nguyễn T. Trang. HCMCOUJS-Kinh tế và Quản trị Kinh doanh, 172, 138-151 khác với nghiên cứu trước đây của N. Q. Nguyen 2015, cụ thể là nông dân trồng khóm bán trực tiếp khóm đến người tiêu dùng là khách du lịch thông qua mô hình du lịch cộng đồng. Xét về giá trị gia tăng và gia tăng thuần của kênh này đạt khá cao so với các kênh khác, để tiếp tục phát triển sinh kế cho nông hộ trồng khóm, việc phát triển mô hình du lịch cộng đồng là một trong những lựa chọn có tính khá thi cao, đặc biệt là tận dụng chương trình OCOP để phát triển các điểm du lịch OCOP. Tầm nhìn và chiến lược nâng cấp chuỗi Dựa trên kết quả phân tích đặc điểm, vai trò của các tác nhân tham gia chuỗi, kết quả phân tích kinh tế chuỗi và kết quả thảo luận với chuyên gia, nghiên cứu tiến hành đề xuất một số tầm nhìn và chiến lược nâng cấp chuỗi như sau Xác định tầm nhìn Tăng thu nhập cho các tác nhân trong chuỗi, đặc biệt nông hộ trồng khóm và chế biến các sản phẩm chuẩn hóa OCOP và mở rộng thêm thị trường khó tính để tăng giá trị cho các sản phẩm đạt chuẩn OCOP như nước màu khóm, rượu khóm, bánh khóm và dưa chua củ hủ khóm. Chiến lược nâng cấp chuỗi Để thực hiện được tầm nhìn là tăng thu nhập cho các tác nhân tham gia chuỗi và phát triển thị trường mới thì chiến lược đề xuất là xây dựng và tăng cường các liên kết ngang và liên kết dọc; nâng cấp công nghệ, đẩy mạnh hoạt động xúc tiến thương mại, cắt giảm chi phí sản xuất để giá thành sản phẩm có thể cạnh tranh với những sản phẩm khác. Hình 2. Sơ đồ chiến lược nâng cấp chuỗi giá trị khóm Cầu Đúc tỉnh Hậu Giang Nguồn Tác giả đề xuất 2021 xuất chủ vựa Bán lẻ trong/ dùng 1. Tăng nguồn vốn hỗ trợ sản xuất và thương mại 2. Số lượng sản phẩm tăng và doanh thu tăng Quản lý và công nghệ - Giảm giá thành đơn vị - Số lượng sản xuất ra nhiều hơn - Chất lượng tốt hơn Thương mạiNâng cấp Xúc tiến Tăng cường liên kết dọc và liên kết ngang Võ H. Tú, Nguyễn T. Trang. HCMCOUJS-Kinh tế và Quản trị Kinh doanh, 172, 138-151 149 Dựa trên tầm nhìn, chiến lược, nghiên cứu đề xuất các giải pháp như sau 1 Đối với nông hộ trồng khóm cần tham gia các lớp tập huấn về cách thức trồng khóm theo chuẩn VietGap để tiến hành chế biến/chuẩn hóa sản phẩm OCOP… để 1 đảm bảo chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm; 2 cắt giảm chi phí phân bón, thuốc bảo vệ thực vật; 3 biết cách chăm sóc khóm đề phòng dịch bệnh; 2 Thúc đẩy việc hình hành và nâng cấp các mối liên kết giữa các tác nhân, đặc biệt là liên kết dọc để rút ngắn kênh phân phối để góp phần nâng cao giá trị gia tăng. Tiếp tục và đẩy mạnh hình thành các mối liên kết ngang như thành lập hợp tác xã và tổ chức sản xuất tập trung, gắn kết với các doanh nghiệp; 3 Cơ sở chế biến cần đầu tư đổi mới công nghệ chế biến, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm trong quá trình chế biến, các chỉ tiêu để đáp ứng thị trường khó tính nhằm mở rộng thị trường, tiến đến xuất khẩu và có thể thăng hạng cho các sản phẩm OCOP; 4 Cần giữ ổn định và phát triển hơn nữa thị trường tiêu thụ nội địa và tiến xa hơn là xuất khẩu sang các quốc gia khác trong khu vực bằng cách khảo sát tìm kiếm thị trường; 5 Chính quyền địa phương các cấp hỗ trợ về chính sách thu hút đầu tư và tiếp cận với các công ty chế biến xuất khẩu, đẩy mạnh công tác tập huấn, thông tin về chương trình OCOP và sản phẩm đạt chuẩn OCOP để cả nông hộ và các chủ thể nắm rõ. 5. Kết luận Từ kết quả nghiên cứu chuỗi giá trị ngành hàng khóm Cầu Đúc tỉnh Hậu Giang, nghiên cứu cho thấy khóm được bán qua 05 kênh chính, trong đó kênh tiêu thụ thông qua thương lái là chủ yếu, chiếm hơn Kênh tiêu thụ mới được hình thành là bán cho khách du lịch thông qua các điểm du lịch cộng đồng. Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy kênh thị trường khóm Cầu Đúc có chế biến các sản phẩm OCOP cũng khá tiềm năng về giá trị gia tăng cũng như thị trường tiêu thụ. Về chi phí sản xuất khóm, nghiên cứu cho thấy chi phí giống, phân và lao động thuê còn khá cao và chiếm tỷ lệ lớn trong tổng chi phí. Để phát triển sinh kế cho nông hộ trồng khóm, tiết giảm chi phí là tất yếu và cụ thể là chi phí giống, đẩy mạnh ứng dụng cơ giới hóa để giảm chi phí thuê mướn lao động. Tài liệu tham khảo Barratt, M., & Oliveira, A. 2001. Supply chain collaboration Exploring the early initiatives part one. Supply Chain Practice, 34, 34-47. Callioni, G., & Billington, C. 2001. Effective collaboration Hewlett-Packard takes supply chain management to another level. OR MS Today, 285, 34-39. Corbett, C. J., Blackburn, J. D., & Wassenhove, L. N. V. 1999. Partnerships to improve supply chains. MIT Sloan Management Review, 404, 71-82. Cục thống kê tỉnh Hậu Giang. 2020. Niên giám thống kê tỉnh Hậu Giang năm 2019 [Statistical yearbook of Hau Giang 2019]. Hanoi, Vietnam Nhà xuất bản Thống Kê. Dao, A. T., Dao, H. D., Ngo, D. S., Dang, C. D., & Le, P. V. 2005. Phân tích ngành hàng rau tại tỉnh Thái Bình [Analysis of vegetable industry in Thai Binh Province]. Thai Binh, Vietnam Viện Khoa học kỹ thuật Nông nghiệp Việt Nam. 150 Võ H. Tú, Nguyễn T. Trang. HCMCOUJS-Kinh tế và Quản trị Kinh doanh, 172, 138-151 Dao, A. T., Dao, H. D., Ngo, D. S., Dang, C. D., & Le, P. V. 2006. Phân tích ngành hàng rau tại tỉnh Hà Tây [Analysis of vegetable industry in Ha Tay]. Ha Tay, Vietnam Viện Khoa học kỹ thuật Nông nghiệp Việt Nam. Duong, T. N. 2014. Giải pháp nâng cao hiệu quả chuỗi giá trị ngành hàng xoài cát tỉnh Đồng Tháp Đề tài nghiên cứu khoa học công nghệ cấp tỉnh [Solutions to improve the efficiency of the value chain of Cat mango industry in Dong Thap Province Provincial science and technology research project]. Dong Thap, Vietnam Sở khoa học và Công nghệ tỉnh Đồng Tháp, Việt Nam. Food and Agriculture Organization FAO. 2007. Agro-industrial supply chain management Concepts and applications Agriculture management, marketing and Finance occasional paper, No. 17. Truy cập ngày 10/05/2021 tại General Statistics Office of Vietnam GSO. 2020. Statistical yearbook of Vietnam 2019. Hanoi, Vietnam Statistical Publishing House. Gereffi, G. 1994. The organization of buyer-driven global commodity chains How US retailers shape overseas production networks. In G. Gereffi & M. Korzeniewicz Eds., Commodity chains and global capitalism pp. 95-122. London, UK Praeger. Gereffi, G., & Korzeniewicz, M. 1994. Commodity chains and global capitalism. London, UK Praeger. GTZ. 2007. Valuelinks manual The methodology of value chain promotion 1st ed.. Eschborn, Germany GTZ. Hoang, V. V. 2014. Nghiên cứu đa dạng hóa thị trường tiêu thụ chuỗi giá trị bưởi da xanh Bến Tre [Research on diversifying markets for consumption of Ben Tre green-skinned pomelo value chain]. Tạp chí Phát triển & Hi nhập, 1626, 83-91. Huy Vu 2020. Tỉnh Hậu Giang phấn đấu trở thành trung tâm nông nghiệp thông minh vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long [Hau Giang Province strives to become a smart agricultural center in the Mekong Delta]. Truy cập ngày 25/05/2021 tại Kaplinsky, R. 2000. Globalisation and unequalisation What can be learned from value chain analysis? Journal of Development Studies, 372, 117-146. Kaplinsky, R., & Morris, M. 2000. A handbook for value chain research. Brighton, UK University of Sussex, Institute of Development Studies. M4P. 2008. Making value chains work better for the poor A toolbook for practitioners of value chain analysis. Phnom Penh, Cambodia Agricultural Development International. Nguyen, C. D. 2011. Transformation of farming systems in Coastal Mekong Delta Seeking for better management and sustainability. In Proceedings of the 6th International Symposium on Structural Transformation of Vietnamese Agriculture and Rural Society in the Period of Globalization, Industrialization, Modernization. Kagoshima, Japan Kagoshima University. Nguyen, N. Q. 2015. Phân tích chuỗi giá trị sản phẩm khóm của hộ nghèo ở tỉnh Tiền Giang [Analyzing pineapple value chain of poor farm households in Tien Giang Province]. Tạp chí Khoa học trường Đại học Cần Thơ, 402015, 75-82. Võ H. Tú, Nguyễn T. Trang. HCMCOUJS-Kinh tế và Quản trị Kinh doanh, 172, 138-151 151 Nguyen, S. P. 2012. Phân tích chuỗi giá trị táo, tỏi, nho tỉnh Bình Thuận[Analysis of the value chain of apples, garlic and grapes in Binh Thuan Province]. Binh Thuan, Vietnam Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Bình Thuận, Việt Nam. Porter, M. E. 1985. Technology and competitive advantage. Journal of Business Strategy, 53, 60-78. Raikes, P., Jensen, M. F., & Ponte, S. 2000. Global commodity chain analysis and the French filière approach Comparison and critique. Economy and Society, 293, 390-417. Tran, K. T. 2011, November. Báo cáo nghiên cứu phân tích chuỗi giá trị dừa Bến Tre Dự án Phát triển kinh doanh với người nghèo Bến Tre [Research report on Ben Tre coconut value chain analysis Business Development Project for the poor of Ben Tre]. Truy cập ngày 10/05/2021 tại Văn phòng điều phối Nông thôn mới tỉnh Hậu Giang. 2020. Bảng tổng hợp 46 sản phẩm được chứng nhận sản phẩm ocop năm 2020 [List of 46 ocop certified products in 2020]. Hau Giang, Vietnam Ủy ban nhân dân tỉnh Hậu Giang. Vo, L. T. T., & Nguyen, C. N. 2009. Gạo Việt Nam nhìn từ chuỗi giá trị lúa gạo tiêu thụ trong nước và xuất khẩu tại Cần Thơ [Vietnamese rice views from the rice value chain for domestic consumption and export in Can Tho]. Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, 3, 3-8. Vo, L. T. T., & Nguyen, S. P. 2013a. Giáo trình Phân tích Chuỗi giá trị sản phẩm Ứng dụng trong lĩnh vực nông nghiệp [Textbook of product value chain analysis Applied in the agricultural sector]. Can Tho, Vietnam Nhà xuất bản Trường Đại học Cần Thơ. Vo, L. T. T., & Nguyen, S. P. 2013b. Phân tích chuỗi giá trị hành tím tỉnh Sóc Trăng [Analysis of the purple onion value chain in Soc Trang Province]. Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, 19 3-12. Wallerstein, I. 1974. The rise and future demise of the world capitalist system Concepts for comparative analysis. Comparative Studies in Society and History, 164, 387-415. Creative Commons Attribution-NonCommercial International License. ResearchGate has not been able to resolve any citations for this publication. Gary GereffiGlobal industrialization is the result of an integrated system of production and trade. Open international trade has encouraged nations to specialize in different branches of manufacturing and even in different stages of production within a specific industry. This process, fueled by the explosion of new products and new technologies since World War II, has led to the emergence of a global manufacturing system in which production capacity is dispersed to an unprecedented number of developing as well as industrialized countries Harris, 1987; Gereffi, 1989b. The revolution in transportation and communications technology has permitted manufacturers and retailers alike to establish international production and trade networks that cover vast geographical distances. While considerable attention has been given to the involvement of industrial capital in international contracting, the key role played by commercial capital large retailers and brand-named companies that buy but don't make the goods they sell in the expansion of manufactured exports from developing countries has been relatively ignored. This chapter will show how these big buyers’ have shaped the production networks established in the world's most dynamic exporting countries, especially the newly industrialized countries NICs of East Asia. The argument proceeds in several stages. First, a distinction is made between producer-driven and buyer-driven commodity chains, which represent alternative modes of organizing international industries. These commodity chains, though primarily controlled by private economic agents, are also influenced by state policies in both the producing exporting and consuming importing countries. Second, the main organizational features of buyer-driven commodity chains are identified, using the apparel industry as a case study. The apparel commodity chain contains two very different segments. The companies that make and sell standardized clothing have production patterns and sourcing strategies that contrast with firms in the fashion segment of the industry, which has been the most actively committed to global sourcing. Recent changes within the retail sector of the United States are analyzed in this chapter to identify the emergence of new types of big buyers and to show why they have distinct strategies of global sourcing. Third, the locational patterns of global sourcing in apparel are charted, with an emphasis on the production frontiers favored by different kinds of US buyers. Several of the primary mechanisms used by big buyers to source products from overseas are outlined in order to demonstrate how transnational production systems are sustained and altered by American retailers and branded apparel companies. Nguyen Duy CanTransformation of farming systems in coastal Mekong Delta provides a real picture of how coastal farmers respond to rapid changes in agricultural production and socio-economic conditions within coastal regions. These transformations have relation to efforts of both government and coastal communities in attempting to manage the coastal resources. Transformation of farming systems in the zone has gone through 4 major distinct development stages, pre-development 1975-1988, early development 1989-1999, shrimp boom 2000-2006 and recent development 2007-2009. The evolution of farming systems is moving towards an intensification of production system, rice-shrimp system appears to be more sustainable. There are two major strategies for better management and enhance sustainability of shrimp farming in coastal Mekong Delta, the hard-measures’ or infrastructure measures and the soft-measures’ or technological measures. Keywords Transformation of farming systems; sustainability; extensive system, semi-intensive, and this, the first of a two part paper, the authors present their literature review. The benefits and some of the adopters of CPFR are enumerated and the gaps in our current knowledge highlighted. The objectives of the subsequent survey across 220 members of the VICS CPFR contact list are outlined together with details of the process mapping undertaken in order to develop the JensenS. FonteThis paper provides detailed descriptive accounts of two important methodological positions for analysing the political economy of global production and trade, Global Commodity Chain GCC analysis and the Filiere tradition. As well as describing the similarities and differences between the positions, the paper raises a series of criticisms of them. It concludes that GCC analysis provides a more promising point of departure than the Filiere tradition, although some work related to the latter could help fill certain of the lacunae within GCC to solidify and streamline supplier-customer relationships can result in mutually beneficial commercial success. Gary GereffiMiguel KorzeniewiczIntroduction Global Commodity Chains by Gary Gereffi, Roberto P. Korzeniewicz, and Miguel Korzeniewicz Historical and Spatial Patterns of Commodity Chains in the World-System Commodity Chains in the Capitalist World-Economy Prior to 1800 Commodity Chains Construction and Research by Terence K. Hopkins and Immanuel Wallerstein The Shipbuilding Commodity Chain, 1590-1790 by Eyup Ozveren The Grain Flour Commodity Chain, 1590-1790 by Sheila Pelizzon Conclusions About Commodity Chains by Terence K. Hopkins and Immanuel Wallerstein Competition, Time and Space in Industrial History by Erica Schoenberger The Global Distribution of Commodity Chains by Roberto P. Korzeniewicz and William Martin The Organization of Commodity Chains The Organization of Buyer-Driven Global Commodity Chains How Retailers Shape Overseas Production Networks by Gary Gereffi Where Is the Chain in Commodity Chains? The Service Sector Nexus by Eileen Rabach and Eun Mee Kim Institutionalizing Flexibility A Comparative Analysis of Fordist and Post-Fordist Models of Third World Agro-Export Production by Laura T. Reynolds The Geography of Commodity Chains The New Spatial Division of Labor and Commodity Chains in the Greater South China Economic Region by Xiangming Chen Commodity Chains and Industrial Restructuring in the Pacific Rim Garment Trade and Manufacturing by Richard Appelbaum, David Smith, and Brad Christerson Strategic Reorientations of Apparel Firms by Ian M. Taplin Automobile Commodity Chains in the NICS A Comparison of South Korea, Mexico and Brazil by Naeyoung Lee and Jeffrey Cason Consumption and Commodity Chains Commodity Chains and Marketing Strategies Nike and the Global Athletic Footwear Industry by Miguel Korzeniewicz Fresh Demand The Consumption of Chilean Produce in the United States by Walter L. Goldfrank Commodity Chains and the Korean Automobile Industry by Hyung Kook Kim and Su-Hoon Lee Cocaine, Commodity Chains, and Drug Politics A Transnational Approach by Suzanne Wilson and Marta Zambrano Bibliography IndexMichael E. PorterTechnological innovations can have Important strategic implications for individual companies and can greatly influence industries as a whole. Yet, not all technological change is strategically beneficial. This article focuses on ways to recognize and exploit the competitive significance of WallersteinThe growth within the capitalist world-economy of the industrial sector of production, the so-called industrial revolution’, was accompanied by a very strong current of thought which denned this change as both a process of organic development and of progress. There were those who considered these economic developments and the concomitant changes in social organization to be some penultimate stage of world development whose final working-out was but a matter of time. These included such diverse thinkers as Saint-Simon, Comte, Hegel, Weber, Durkheim. And then there were the critics, most notably Marx, who argued, if you will, that the nineteenth-century present was only an antepenultimate stage of development, that the capitalist world was to know a cataclysmic political revolution which would then lead in the fullness of time to a final societal form, in this case the classless society. Raphael KaplinskyAlthough many have gained from the process of globalisation, there remains a stubbornly large number of people living in absolute poverty and a rise in inequality within and between countries. The issue is thus not whether to participate in the global economy but how to do so in a manner which provides for sustainable and equitable income growth. This study shows how value chain analysis can be used to chart the growing disjuncture between global economic activity and global income distribution and to provide causal explanations for this outcome. In so doing, value chain analysis provides valuable insights into policy formulation and implementation. 01/06/2021 0726 GMT+7 HG - Những ngày gần đây, giá khóm Cầu Đúc sụt giảm xuống còn ở mức thấp nên nhiều hộ dân có diện tích khóm chín đang vào vụ thu hoạch ở các xã như Hỏa Tiến, Tân Tiến, thành phố Vị Thanh và vùng lân cận lo lắng bởi mất nguồn lợi nhuận. Nông dân trồng khóm ở xã Hỏa Tiến thu hoạch khóm bán cho thương lái. Chị Tám Hậu, ở ấp Thạnh Thắng, xã Hỏa Tiến, thành phố Vị Thanh, cho biết mới cách đây ít hôm, chị còn bán được đợt khóm chín với giá đồng/chục 10 trái thì nay thương lái vào tận rẫy chỉ mua với giá đồng/chục, khóm loại I trái từ 1kg trở lên. Với giá này, sau khi trừ đi chi phí phân bón, công xắn, công vận chuyển… thì người trồng khóm không còn lợi nhuận. Chị Trang, chủ vựa thu mua khóm ở xã Tân Tiến, thành phố Vị Thanh, cho rằng nguyên nhân giá khóm trái gần đây bị sụt giảm mạnh là do thị trường bán lẻ trong nước tiêu thụ chậm. Trong khi đó các vùng khóm nguyên liệu lớn như Long An, Tiền Giang, đang vào mùa thu hoạch rộ, bên cạnh đó nhiều loại nông sản trái cây khác như sầu riêng, mít, nhãn, xoài, vải… cũng đang vào mùa giá bán thấp nên khóm cũng giảm theo. QUANG HẢI Xác định khóm Cầu Đúc là cây trồng chủ lực của địa phương, chính vì vậy, ngay khi bắt tay vào xây dựng xã nông thôn mới NTM theo 19 tiêu chí của Chính phủ từ năm 2011, Ban Chỉ đạo xây dựng NTM xã Hỏa Tiến, thành phố Vị Thanh tiếp tục dựa trên nền tảng này để tạo ra bức tranh NTM khang trang như hôm nay. Thương hiệu khóm Cầu Đúc đang góp phần đưa Hỏa Tiến trở thành xã NTM. Đời sống người trồng khóm phát triển Nhắc đến xã Hỏa Tiến thì chắc hẳn nhiều người sẽ nghĩ ngay đến sản phẩm khóm Cầu Đúc, vì chất lượng thơm ngon của vùng khóm nơi đây khó có nơi nào sánh được và đây còn là một trong 10 sản phẩm chủ lực và đã có thương hiệu của tỉnh trong nhiều năm qua. Chính chất lượng của trái khóm nơi đây đã giúp cho nhiều hộ dân gắn bó với nghề trồng khóm có được nguồn thu nhập cao và cuộc sống ổn định qua từng năm nhờ giá cả luôn ở mức hấp dẫn, nhất là khoảng 3-4 năm trở lại đây. Vừa xắn xong khoảng trái khóm trên diện tích hơn 1 công trong tổng số 7 công khóm của gia đình và đang chuẩn bị đếm cho thương lái, ông Cao Văn Ta, ở ấp Thạnh Thắng, người đã gắn bó với cây khóm hơn 10 năm qua, cho biết “Lúc này khóm thuận mùa nên giá khóm loại I từ 1kg trở lên chỉ còn đồng/trái, chứ rơi vào nghịch vụ thì giá có khi lên gấp đôi. Tính sơ trong đợt thu hoạch này, gia đình tôi kiếm được nguồn thu nhập khoảng 4 triệu đồng, nếu cộng cả năm chắc nguồn lợi nhuận hơn 40 triệu đồng”. Cách rẫy khóm ông Ta không xa, ông Trang Văn Siêu, ở ấp Thạnh An, chỉ tay về phía rẫy khóm, chia sẻ “Do giá khóm ở mức cao trong khoảng 3 năm nay thấp nhất là đồng/trái loại I, còn cao nhất là từ đồng/trái, đếm tại rẫy mà nhiều hộ trong ấp này giờ thoát nghèo, có của ăn, của để”. Được biết, xã Hỏa Tiến là vùng đất nhiễm phèn và bị ảnh hưởng của xâm nhập mặn nên ngoài cây khóm thì rất ít cây trồng khác thích nghi với vùng đất này. Chính vì vậy, dù nông dân đã trồng trước đó, nhưng khi bắt tay vào xây dựng NTM lãnh đạo xã đã tiến hành quy hoạch vùng sản xuất theo hướng tập trung, đồng thời khuyến khích nông dân nơi đây tiếp tục chọn cây khóm để phát triển kinh tế gia đình. Theo tính toán của nông dân, khi khóm đã trưởng thành sẽ cho thu hoạch từ 2-3 vụ trong năm, bình quân lợi nhuận bà con thu được từ 30-40 triệu đồng/ha. Có thể nói, khi đời sống của người dân được nâng lên thì cũng là lúc đưa quá trình xây dựng NTM của xã Hỏa Tiến được nhiều thuận lợi hơn vì có sự tham gia mạnh mẽ của người dân bằng việc tự nguyện đóng góp công sức, vật chất, hiến đất, hoa màu… để xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn như đường giao thông, trường học, trạm y tế, cơ sở vật chất văn hóa… ngày một khang trang, đáp ứng yêu cầu các tiêu chí. Nổi bật là hiện xã có đường ôtô về trung tâm xã được nhựa hoặc bê tông hóa và đường xóm, ấp không còn lầy lội vào mùa mưa, đây là điều kiện khá thuận lợi giúp cho việc vận chuyển khóm của nông dân bằng xe tải hoặc xe máy được dễ dàng. Bên cạnh thay đổi về cơ sở hạ tầng nông thôn, điểm sáng khác trong quá trình xây dựng NTM của Hỏa Tiến là công tác giảm nghèo trong những năm qua rất hiệu quả, nhất là năm 2017 này. Bởi vào đầu năm 2017, khi Hỏa Tiến được chọn là một trong 7 xã của tỉnh phấn đấu về đích NTM trong năm nay thì các ngành chức năng đặt ra sự lo ngại về tiêu chí hộ nghèo của xã do còn ở mức cao. Cụ thể, nếu cuối năm 2016, tỷ lệ hộ nghèo của xã dưới 3% thì sang năm 2017 khi điều tra theo hướng đa chiều thì lại tăng lên hơn 12%, trong khi theo quy định của tiêu chí là dưới 4%. Ông Hồ Hồng Lâm, Trưởng phòng Kinh tế, Phó ban Chỉ đạo xây dựng NTM thành phố Vị Thanh, thông tin Tuy tỷ lệ hộ nghèo đầu năm của Hỏa Tiến là rất cao, nhưng sau khi tiến hành họp dân và lắng nghe ý kiến của từng hộ thì hầu hết mỗi hộ nghèo chỉ thiếu 1-2 chiều so với quy định, nhất là về nhà ở. Thế nhưng, một vấn đề thực tế là nhiều gia đình rất có điều kiện và hầu như các vật dụng trong nhà đều có đầy đủ nhưng họ lại thích ở nhà lá cho mát, nên khi áp dụng so với quy định thì họ bị xếp vào hộ nghèo. Như vậy, sau khi nắm bắt được tình hình, Ban Chỉ đạo xây dựng NTM thành phố cùng phối hợp với xã, ấp đẩy mạnh công tác tuyên truyền vận động, qua đây giúp tỷ lệ hộ nghèo của xã từng bước giảm xuống còn 3,80%. Cùng với hai lĩnh vực trên, hiện hệ thống cảnh quan môi trường trên địa bàn xã Hỏa Tiến cũng ngày một sáng - xanh - sạch - đẹp khi trên nhiều tuyến đường nông thôn, cặp với những rẫy khóm bạt ngàn đang cho hiệu quả kinh tế cao thì còn có những luống hoa khoe sắc hay hàng rào được làm bằng cây xanh chạy dài trông rất đẹp. Từ đây, càng tô điểm cho xã Hỏa Tiến thêm giàu đẹp và tiếp tục vững bước trong thời gian tới. Để thương hiệu ngày càng vươn xa Nhằm giúp người trồng khóm nơi đây tiếp tục an tâm gắn bó với cây trồng có thế mạnh này của tỉnh, đồng thời để thương hiệu khóm Cầu Đúc Hậu Giang ngày càng vươn xa, thời gian qua, chính quyền địa phương và các ngành chức năng của tỉnh đã có những động thái tích cực. Trong đó, đã thành lập Hợp tác xã HTX Thạnh Thắng, ở ấp Thạnh Thắng để giải quyết vấn đề đầu ra sản phẩm cho bà con xã viên. Hiện HTX Thạnh Thắng có 75 thành viên, với diện tích canh tác khóm 160ha, tổng sản lượng khóm cung ứng cho thị trường hàng năm khoảng tấn. Điểm nổi bật của HTX Thạnh Thắng là một trong số ít các HTX trên địa bàn tỉnh hiện có trụ sở làm việc độc lập và nhà kho khang trang. Chia sẻ trong niềm vui, ông Vu Suổi, Chủ tịch HĐQT, kiêm Tổng Giám đốc HTX Thạnh Thắng, cho hay “Mới đây, HTX được Tỉnh ủy, UBND tỉnh hỗ trợ 300 triệu đồng để xây dựng và đã hoàn thành trụ sở làm việc, nhà kho. Từ công trình này sẽ giúp cho các hoạt động của HTX được thuận lợi, hiệu quả hơn, góp phần đưa đời sống của bà con trong và ngoài HTX tiếp tục phát triển”. Cùng với thành lập HTX và gắn với đầu tư cơ sở hạ tầng, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh đã phối hợp với các ngành có liên quan xây dựng khu du lịch sinh thái khóm Cầu Đúc nhằm thu hút nhiều khách du lịch để có thể quảng bá thương hiệu. Hiện không chỉ có du khách trong nước mà còn có không ít du khách ngoài nước tìm đến. Điều phấn khởi là ngoài việc tham quan thì các đoàn khách nước ngoài còn xem xét tìm cơ hội hợp tác, đầu tư để đưa sản phẩm khóm Cầu Đúc về với nước họ. “Từ đầu năm đến nay, HTX đã đón nhiều đoàn du khách nước ngoài như Nga, Úc và mới đây là đoàn công tác của Hiệp hội Kỹ thuật Nông nghiệp tỉnh Jeonnam, Hàn Quốc. Sau khi tham quan rẫy khóm và được thưởng thức vị ngon ngọt từ khóm thì tất cả đều đánh giá cao chất lượng khóm Cầu Đúc Hậu Giang. Mong rằng, tới đây HTX Thạnh Thắng sẽ có nhiều đối tác từ nước ngoài để trái khóm nơi đây tiếp tục được vươn xa”, ông Vu Suổi, Chủ tịch HĐQT, kiêm Tổng Giám đốc HTX Thạnh Thắng, thông tin. Ông Lê Văn Đời, Phó Giám đốc Sở NN&PTNT tỉnh, cho rằng Ngành nông nghiệp tỉnh rất quan tâm và mong muốn thúc đẩy thương hiệu khóm Cầu Đúc của tỉnh ngày một tiến xa hơn ở thị trường trong và ngoài nước. Chính vì vậy, khi có đoàn khách lớn nào thì sở thường giới thiệu đến HTX Thạnh Thắng và cứ mỗi đoàn đến đều là một cơ hội lớn cho vùng khóm nơi đây về thị trường đầu ra. Đây cũng là nguyên nhân làm cho giá khóm trong những năm gần đây ổn định ở mức cao, góp phần đắc lực cho công tác xây dựng NTM tại xã đạt được nhiều mặt quan trọng. Đến thời điểm này có thể khẳng định rằng, việc Hỏa Tiến lấy nền tảng từ cây khóm Cầu Đúc để làm đòn bẩy trong xây dựng NTM là việc làm đúng hướng. Bên cạnh đó, cùng với sự giúp đỡ, chỉ đạo kịp thời của Tỉnh ủy, UBND tỉnh và các ngành có liên quan đã đưa phong trào xây dựng NTM của Hỏa Tiến hoàn thành đúng lộ trình đề ra khi hiện xã đã được các sở, ngành có liên quan của tỉnh công nhận đạt 19/19 tiêu chí NTM. Ông Hồ Hồng Lâm, Trưởng phòng Kinh tế, Phó ban Chỉ đạo xây dựng NTM thành phố Vị Thanh, cho biết Các thành viên trong Ban Chỉ đạo xây dựng NTM thành phố chuẩn bị họp lại để lấy ý kiến về việc công nhận xã Hỏa Tiến đạt chuẩn NTM. Sau cuộc họp này, sẽ gửi các hồ sơ, thủ tục về Văn phòng điều phối NTM tỉnh để xem xét trình UBND tỉnh ra quyết định công nhận. Nếu được UBND tỉnh chấp thuận thì dự kiến Hỏa Tiến sẽ tổ chức lễ ra mắt xã NTM vào dịp 22-12 tới. Chủ tịch UBND xã Hỏa Tiến Dương Minh Truyền cho biết Toàn xã có hơn khóm Cầu Đúc, chiếm hơn 75% diện tích đất sản xuất nông nghiệp của địa phương và hiện diện tích khóm của xã chiếm cao nhất trong tổng diện tích hơn khóm của toàn thành phố Vị Thanh. Ngoài cây trồng chủ lực là khóm, xã cũng đang đẩy mạnh việc vận động người dân cải tạo tại vùng đất ven lang bãi bồi cặp sông Cái Lớn và Nước Đục để trồng cây ăn trái với diện tích hiện nay là 120ha, qua đây nhằm giúp tiêu chí thu nhập được ổn định. Bài, ảnh HỮU PHƯỚC Nông dân xã Hỏa Tiến Thanh thu hoạch khóm Theo ông Vu Suổi, Chủ nhiệm Hợp tác xã trồng khóm Thạnh Thắng Thanh, thời tiết mưa nắng xen kẽ trong thời gian qua là điều kiện thuận lợi cho cây khóm phát triển, nhờ vậy sản lượng và chất lượng khóm năm nay hơn hẳn các năm trước. Giá khóm thương lái thu mua tại rẫy hiện dao động từ - đồng/trái loại hơn 1 kg/trái, tăng - đồng/trái so với cùng kỳ. Đặc biệt, có lúc giá lên đến đồng/trái, mức cao kỷ lục từ trước đến nay. Riêng khóm bán tại chợ từ - đồng/trái. Anh Vương Minh Bình ở ấp Thạnh An, xã Hỏa Tiến, Thanh cho biết từ trước đến nay, người trồng khóm tại đây chưa hề bán được giá cao như vậy. Mọi năm, khóm chỉ có giá trong vòng nửa tháng rồi giảm còn - đồng/trái. Riêng năm nay, giá khóm ở mức cao suốt 2 tháng, khiến bà con phấn khởi, mong khóm mau chín để thu hoạch. Gia đình anh Bình trồng 1,5 ha khóm, sau khi trừ chi phí, thu lãi khoảng 40 triệu đồng/ha. Điều đáng mừng hơn là những năm gần đây, đầu ra sản phẩm ổn định nên nông dân yên tâm đầu tư, mở rộng diện tích trồng khóm; đồng thời chính quyền địa phương cũng xác định khóm là cây kinh tế chủ lực, giúp xóa đói giảm nghèo, nâng cao thu nhập… Hậu Giang có diện tích trồng khóm khoảng ha, năng suất trung bình 15 tấn/ha, tổng sản lượng đạt hơn tấn/năm. Khóm Cầu Đúc từ lâu đã trở thành thương hiệu quen thuộc với người tiêu dùng nhờ vị ngọt thanh. Nét riêng của giống khóm này là trái có hình dáng thanh nhã, cuống ngắn, lõi nhỏ, mắt lồi, thịt vàng sậm, ít xơ, ít nước, ăn giòn, ngọt và có thể giữ được 10 - 15 ngày. Bài, ảnh Kim Anh

giá khóm cầu đúc hôm nay