I. Mở bài. Vợ nhặt đưa ta về với số phận những con người trên bờ vực thẳm của nạn đói khủng khiếp năm 1945. Nhưng "những người đói, họ không nghĩ đến cái chết, mà nghĩ đến cái sống" (Kim Lân). Câu nói của chính tác giả giúp chúng ta đi sâu tìm hiểu giá trị Có ý kiến cho rằng: "ở truyện ngắn Vợ nhặt, Kim Lân chú tâm miêu tả kĩ lưỡng hiện thực tàn khốc trong nạn đói thê thảm mùa xuân 1945. Ý kiến khác thì nhấn mạnh: Ở tác phẩm này, nhà văn chủ yếu hướng vào thể hiện vẻ đẹp tiềm ẩn của những người dân nghèo sau cái bề ngoài đói khát, xác xơ của Xóm Trại của thôn Thượng là nơi chết đói nhiều nhất trong xã, đã bị xóa sổ. Số hộ ở xóm là 34 hộ, 130 khẩu, thì có tới 103 khẩu chết đói, chỉ còn lại 27 người. Tỉ lệ chết đói ở đây là 79%. Trại này đã bị xóa sổ sau nạn đói 1945. Tại xóm Bối Xuyên, có 51 hộ, thì 40 hộ có người chết đói, trong đó 18 hộ chết sạch cả gia đình. Anh/ chị hiểu thế nào về hai câu thơ Bộ đội vào rừng chịu nắng dầm sương dãi? Đất nào như đất ấy không đọc hiểu. 23/03/2022 Viết về nạn đói ăn năm Ất Dậu, Vợ nhặt của Kim Lân là một truyện ngắn sắc nhất, độc đáo nhất trong nền văn xuôi Việt Nam hiện Vợ nhặt là một trong những truyện ngắn hay nhất của Kim Lân và văn học Việt Nam sau năm 1945, truyện được in trong tập Con chó xấu xí năm 1962. Vốn xuất thân từ làng quê Việt Nam nên Kim Lân đã viết nên Vơ nhặt bằng tất cả tâm hồn, tình cảm của một con người là con Nhằm đáp ứng yêu cầu trên và nhân dịp kỷ niệm lần thứ 50 ngày thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám, lần thứ 50 ngày chiến thắng phát xít Nhật của nhân dân trên toàn thế giới, Giáo sư Văn Tạo và Giáo sư Furata Motoo đã tiến hành nghiên cứu và biên soạn cuốn sách "Nạn Đói Năm 1945 Ở Việt Nam - Những Chứng Tích Lịch Sử". 2. Bước đầu xây dựng chính quyền cách mạng, giải quyết nạn đói, nạn dốt và khó khăn về tài chính. a. Xây dựng chính quyền cách mạng. - Ngày 6/1/1946, Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà tổ chức cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội trong cả nước. Về giá trị hiện thực "nồi cháo cám" tái hiện lại cuộc sống nghèo khổ, túng quẫn đến cùng cực của nạn đói năm 1945. Giữa khung cảnh ấy hiện lên những con người nghèo khổ đến tận cùng của xã hội, tưởng rằng sẽ không còn một lối thoát nào cho tương lai. Vay Tiền Online Chuyển Khoản Ngay. Sách về nạn đói năm 1945 hay nhất. Nạn đói thảm khốc nhất trong lịch sử Việt Nam, cướp đi tính mạng của nhiều con người vô tội và để lại biết bao hậu quả tang thương cho nhiều thế Đói Năm 1945 Ở Việt Nam Những Chứng Tích Lịch SửNạn đói năm 1945 làm khoảng 400 ngàn – 2 triệu người chết. Ngày nay, nhắc đến nạn đói khủng khiếp năm Ất Dậu ấy người ta sẽ chỉ nhớ có thể, hoặc nếu hơn thì sẽ là những hình ảnh bi thảm trong những thước phim của bộ phim Sao Tháng Đói Năm 1945 Ở Việt Nam Những Chứng Tích Lịch Sử là công trình nghiên cứu được công bố năm 1995 do Giáo sư Văn Tạo và Giáo sư Furuta Motoo chủ biên. Đến khi ấy, công chúng mới ngỡ ngàng và tìm về cái năm bi thảm nhất trong lịch sử Việt Nam hiện vì đói là cái chết đáng sợ nhất của bất cứ sinh vật nào. Cái chết đến từ từ, không ngừng giày xéo, đày đọa con người trong đau đớn, tủi nhục và sợ hãi. Thế nhưng nạn đói năm 1945 còn gây nên những tấn thảm kịch mà không ai có thể tưởng tượng được. Những ngôi hàng trống rỗng, những con đường ngập xác người hôi thối, những hố chôn tập thể dày đặc. Cái đói tiêu diệt mọi giá trị, phá hủy nhân cách, đập vỡ lương tri – những thảm kịch mà cái đói biến người ta thành quỷ dữ, những em bé bị chó hoang ăn thịt, cha con giết nhau vì một miếng khốc, kinh hoàng là tất cả những gì có thể dùng để nhắc về thảm kịch năm ấy. Con số 2 triệu người cứ như thế xoáy sâu dần dần vào lịch sử và sẽ nhắc cho độc giả thấy, 1945 không chỉ là một năm của độc lập huy hoàng, đó còn là năm của tang thương mất mát..Vợ NhặtVợ nhặt là truyện ngắn của nhà văn Kim Lân viết về thời kỳ xảy ra nạn đói năm 1945, được in trong tập Con chó xấu xí 1962.Tiền thân của truyện là tiểu thuyết Xóm ngụ cư, được viết ngay sau khi Cách mạng tháng tám thành công. Tác phẩm đang viết dang dở thì bị mất bản thảo, nhà văn sau đó đã dựa vào cốt truyện cũ để viết truyện ngắn đánh giá của các nhà phê bình văn học, giá trị của Vợ nhặt là tố cáo tội ác của thực dân, phản ánh cuộc sống thê thảm của nhân dân trong nạn đói. Qua đó, Kim Lân đã bộc lộ sự cảm thông với nỗi khổ của những người dân nghèo, phát hiện ra vẻ đẹp trong tâm hồn và nhân cách Cũ Hà Nội… Băm sáu bố phường, Cái tàu điện, Phố Mới, phố Hàng Đào, phố Hàng Ngang, phố Nghề, Hội Tây, Bà Ba Bé Tý, Tiếng rao đêm, Cơm đầu ghế, Chiếc áo dài, Ông Hai Tây, Cây Hồ Gươm Chỉ nêu vài tên bài như thế cũng thấy sự hiện diện đa dạng của cái nội thành đa đoan lắm chuyện. Phố Hàng Đào với những “mợ Hai” khinh khỉnh, vàng ngọc đầy cổ đầy tay, phố Hàng Nganh với những chú tây đen thờ lợn, chủ hiệu vải, sinh hoạt bí hiểm song cũng đa tình, Phố Mới có nhà cầm đồ Vạn Bảo “lột da” dân nghèo, có cả chợ đưa người, một thứ chợ môi giới thuê mướn – cả mua bán – những vú em, thằng nhỏ, con sen… những thân phận nghèo hèn đem thân làm nô bộc cho thiên cái tàu điện leng keng, những ngày Hội Tây bên bờ Hồ Gươm, những tà áo dài từ thuở thay vai và nhuộm nâu Đồng Lầm đến áo Lơ Muya sặc sỡ mối thời trang một thời…Cái hay ở Tô Hoài là những cái lăng nhăng sự đời ấy chũ của Tản Đà đã có ít nhiều người ghi lại. Chuyện ông Hai Tây làm xiếc, Bà Bé Tý lên đồng… sách báo đã từng đề cập. Nhưng lần này Tô Hoài lại nhìn ra những nét hoạt kê mới, hay cũng đã nhiều người viết về quà Hà Nội nhưng cái bài Chả cá, Bánh cuốn, Phở của Tô Hoài có những thông tin hay, mới mẻ, ngay như Nguyễn Tuân cũng chưa phát hiện hết. Cũng như các loại tiếng rao hàng ban đêm thì Thạch Lam đã ghi chép vậy mà ở Tiếng rao đêm của Tô Hoài vẫn có nhiều ý tứ vậy đó, với vài nét kí họa, Tô Hoài đã vẽ được cái thần thái của một thành phố nghìn tuổi đang đô thị hóa gấp gáp trở thành nửa Tây nửa ta, nửa cũ nửa mới, nửa sang nửa quê…Có một Hà Nội nhố nhăng như thế thì cũng có một Hà Nội lầm lầm than ấy càng rõ nét hơn ở các làng quê ven nội. Thợ cửi, thợ giấy làm quần quật ngày đêm mà vẫn đói khổ, rồi nạn Tây đoan sục bắt rượu lậu và những người dân lành đói khổ phải nhận đi “tù rượu thay” để vợ con ở nhà có người chu cấp. Sự bần cùng ấy hằn sâu nhất trong chuyện Chết đói. Nạn đói năm 1945 đã làm vợi đi của làng Nghĩa Đô bao người. Ngay cả tác giả và bạn văn Nam Cao nếu không có một người quen ý tứ trả công dạy học lũ con ông ta bằng gạo thì “không biết chúng tôi có mắt xanh lè giống thằng Vinh hay dì Tư không, hay còn thế nào nữa…”Trong sách còn một mảng kể về phong tục. Nhiều cái nay không còn. Như các đám múa sư tử thi đêm Rằm Trung Thu ở những phố Hàng Ngang, Hàng Đường và đánh nhau chí tử, quang cảnh những ngày áp tết dường như cả nước kéo về Hà Nội… Ở ven đô thì hội hè đình đám, khao vọng, đám ma… Các bài Làm ma kho, Thẻ thuế thân, Khổng Văn Cu vừa bi vừa hài. Có một bài tuyệt hay, đó là bài mô tả đám rước Thánh Tăng. Đích thị là một lễ hội phồn thực có từ đời nảo đời nao mà tới tận thời Pháp thuộc vẫn còn tồn tại, lại ở ngay sát nách kinh kì. Bấy nhiêu hình ảnh không bao giờ xuất hiện nữa nhưng tôi cứ nghĩ rằng ngày nay, ít ra thì những nhà làm phim lịch sử, viết truyện lịch sử, dựng kịch lịch sử rất cần đến. CHUYỆN CŨ HÀ NỘI chính là một tập kí sự về lịch sử…Ngày đăng 19/12/2020 Lần cập nhật cuối 19/12/2020 lý thuyết trắc nghiệm hỏi đáp bài tập sgk Câu hỏi " Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi" được nhắc tới trong bài thơ gọi nhớ về thời điểm nào của đất nước? Việc nhà thơ tác từ " mòn mỏi" để ghép thành "đói mòn đói mỏi" có tác dụng gì? Ở bài thơ “Bếp lửa” Bằng Việt trong dòng hồi tưởng người cháu nhớ lại “Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi....”Rồi trở về thực tại“ Giờ cháu đã đi xa, có ngọn khói trăm tầuCó lửa trăm nhà niềm vui trăm ngảNhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở- Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?...Câu hỏi a Nêu ý nghĩa văn bản và hoàn cảnh ra đời của bài thơ?Đọc tiếp Xem chi tiết Nhớ về những kỉ niệm tuồi thơ, trong bài thơ Bếp lửa, Bằng Việt viết“Lên bốn tuồi cháu đã quen mùi khóiNăm ấy là năm đói mòn đói mỏị,Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy,Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháuNghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay.”Trích Ngữ văn 9, tập mộtCâu 1 Chỉ ra số từ mà tác giả sử dụng trong đoạn thơ và cho biết sự kiện lịch sử nào được nhắc tới trong những câu thơ trên? Sự kiện này giúp em hiểu thêm điều gì về tuổi thơ của người cháu?Câu 2 Xét thẹo mục đích nói, câu “Nghĩ lại đến giờ...Đọc tiếp Xem chi tiết nội dung, nghệ thuật của khổ 2? mình đố các bn làm dcphân tích hình ảnh saumùi khói đói mòn đói mỏikhô rạc ngựa gầycay-nội dung,nghệ thuật khổ 3tú hú cs ý nghĩa gìliên hệ các tác dụng khác}hình ảnh người bà trong khổ thơ hiện lên như thế nào?-khổ 4 tìm bptt và nêu tác dụngkhổ 5giải nghĩa từ lận đận,nắng mưatác dụng của điệp từ nhòm?bà nhóm lên trong lòng cháu những tình cảm gìtác dụng của than từ ôivì sao cháu cảm nhận đc trong bếp lửa bình dị cs sự thiêng liêng và kỳ lạ-khổ cuối dấu chấm câu g...Đọc tiếp Xem chi tiết “Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khóiNăm ấy là năm đói mòn đói mỏiBố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầyChỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháuNghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay.”Ngữ văn 9, tập hai, NXB GD, 2014 Xem chi tiết Chủ đềBếp lửa- Bằng ViệtCâu hỏinội dung, nghệ thuật của khổ 2? mình đố các bn làm dcphân tích hình ảnh saumùi khói đói mòn đói mỏikhô rạc ngựa gầycay-nội dung,nghệ thuật khổ 3tú hú cs ý nghĩa gìliên hệ các tác dụng khác}hình ảnh người bà trong khổ thơ hiện lên như thế nào?-khổ 4 tìm bptt và nêu tác dụngkhổ 5giải nghĩa từ lận đận,nắng mưatác dụng của điệp từ nhòm?bà nhóm lên trong lòng cháu những tình cảm gìtác dụng của than từ ôivì sao cháu cảm nhận đc trong bếp lửa bình dị cs sự thiêng liêng...Đọc tiếp Xem chi tiết Ở bài thơ Bếp lửa trong dòng hồi tưởng người cháu nhớ lại Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi rồi trở về thực tại Giờ cháu đã đi xa, có ngọn khói trăm tàu Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở - Sớm mai này bà nhóm bếp lửa lên chưa? 1. Nêu hoàn cảnh ra đời của bài thơ. 2. Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi được nhắc đến trong bài thơ gợi về thời điể...Đọc tiếp Xem chi tiết Phần I điểmMột nhà thơ Việt Nam ở hải ngoại đã viết về bà và quê hương nguồn cội bằng tất cả sự nhớ thương, trăn trở. Bài thơ có những câu rất xúc độngNhớ ngày sơ tán lang thangĐọi cơm,bát mắm, thuốc thang bòng đèo Còng lưng Bà gánh đói nghèoMột thân mỏng, Bà chống chèo đói no [...] Vùi trong hơi ấm của BàMắt cháu ngủ, mắt Bà nhoà trong sươngĐỗ Quân, Gorzow,Poland 05/2003Câu 1. Bài thơ “Bếp lửa” Bằng Việt cũng có một khổ thơ viết về người bà đã thay cha mẹ, “chống chèo đói no” cho đứa c...Đọc tiếp Xem chi tiết Từ láy chờn vờn trong dòng thơ đầu giúp em hình dung gì về hình ảnh bếp lửa mà tác giả nhắc tới? Xem chi tiết Bài bài thơ “Bếp lửa”, nhà thơ Bằng Việt đã viết“Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa”.Câu 1 Chép chính xác 7 câu thơ tiếp theo để hoàn thành khổ 2 Nêu hoàn cảnh sáng tác của bài thơ. Xét theo từ loại, nhan đề bài thơ thuộc loại từ gì?Câu 3 Từ “nhóm” trong đoạn thơ vừa chép có ý nghĩa như thế nào? Biện pháp tu từ sử dụng?Câu 4 Bài thơ đã gợi nhắc rất nhiều kỉ niệm tuổi thơ, đó là những kỉ niệm nào?Câu 5 Trong dòng kỉ niệm của tuổi thơ, người cháu rất nhớ câu nói của bà “Bố ở c...Đọc tiếp Xem chi tiết Những cuốn sách hay về nạn đói năm 1945 giúp hậu thế có được cái nhìn toàn cảnh đa chiều sâu sắc và chân xác về sự kiện đau xót nhặt là truyện ngắn của nhà văn Kim Lân viết về thời kỳ xảy ra nạn đói năm 1945, được in trong tập Con chó xấu xí 1962.Tiền thân của truyện là tiểu thuyết Xóm ngụ cư, được viết ngay sau khi Cách mạng tháng tám thành công. Tác phẩm đang viết dang dở thì bị mất bản thảo, nhà văn sau đó đã dựa vào cốt truyện cũ để viết truyện ngắn đánh giá của các nhà phê bình văn học, giá trị của Vợ nhặt là tố cáo tội ác của thực dân, phản ánh cuộc sống thê thảm của nhân dân trong nạn đói. Qua đó, Kim Lân đã bộc lộ sự cảm thông với nỗi khổ của những người dân nghèo, phát hiện ra vẻ đẹp trong tâm hồn và nhân cách Đói Năm 1945 Ở Việt Nam Những Chứng Tích Lịch SửNạn đói năm 1945 làm khoảng 400 ngàn – 2 triệu người chết. Ngày nay, nhắc đến nạn đói khủng khiếp năm Ất Dậu ấy người ta sẽ chỉ nhớ có thể, hoặc nếu hơn thì sẽ là những hình ảnh bi thảm trong những thước phim của bộ phim Sao Tháng Đói Năm 1945 Ở Việt Nam Những Chứng Tích Lịch Sử là công trình nghiên cứu được công bố năm 1995 do Giáo sư Văn Tạo và Giáo sư Furuta Motoo chủ biên. Đến khi ấy, công chúng mới ngỡ ngàng và tìm về cái năm bi thảm nhất trong lịch sử Việt Nam hiện vì đói là cái chết đáng sợ nhất của bất cứ sinh vật nào. Cái chết đến từ từ, không ngừng giày xéo, đày đọa con người trong đau đớn, tủi nhục và sợ hãi. Thế nhưng nạn đói năm 1945 còn gây nên những tấn thảm kịch mà không ai có thể tưởng tượng được. Những ngôi hàng trống rỗng, những con đường ngập xác người hôi thối, những hố chôn tập thể dày đặc. Cái đói tiêu diệt mọi giá trị, phá huỷ nhân cách, đập vỡ lương tri – những thảm kịch mà cái đói biến người ta thành quỷ dữ, những em bé bị chó hoang ăn thịt, cha con giết nhau vì một miếng khốc, kinh hoàng là tất cả những gì có thể dùng để nhắc về thảm kịch năm ấy. Con số 2 triệu người cứ như thế xoáy sâu dần dần vào lịch sử và sẽ nhắc cho độc giả thấy, 1945 không chỉ là một năm của độc lập huy hoàng, đó còn là năm của tang thương mất Cũ Hà Nội… Băm sáu bố phường, Cái tàu điện, Phố Mới, phố Hàng Đào, phố Hàng Ngang, phố Nghề, Hội Tây, Bà Ba Bé Tý, Tiếng rao đêm, Cơm đầu ghế, Chiếc áo dài, Ông Hai Tây, Cây Hồ Gươm Chỉ nêu vài tên bài như thế cũng thấy sự hiện diện đa dạng của cái nội thành đa đoan lắm chuyện. Phố Hàng Đào với những “mợ Hai” khinh khỉnh, vàng ngọc đầy cổ đầy tay, phố Hàng Nganh với những chú tây đen thờ lợn, chủ hiệu vải, sinh hoạt bí hiểm song cũng đa tình, Phố Mới có nhà cầm đồ Vạn Bảo “lột da” dân nghèo, có cả chợ đưa người, một thứ chợ môi giới thuê mướn – cả mua bán – những vú em, thằng nhỏ, con sen… những thân phận nghèo hèn đem thân làm nô bộc cho thiên cái tàu điện leng keng, những ngày Hội Tây bên bờ Hồ Gươm, những tà áo dài từ thuở thay vai và nhuộm nâu Đồng Lầm đến áo Lơ Muya sặc sỡ mối thời trang một thời…Cái hay ở Tô Hoài là những cái lăng nhăng sự đời ấy chũ của Tản Đà đã có ít nhiều người ghi lại. Chuyện ông Hai Tây làm xiếc, Bà Bé Tý lên đồng… sách báo đã từng đề cập. Nhưng lần này Tô Hoài lại nhìn ra những nét hoạt kê mới, hay cũng đã nhiều người viết về quà Hà Nội nhưng cái bài Chả cá, Bánh cuốn, Phở của Tô Hoài có những thông tin hay, mới mẻ, ngay như Nguyễn Tuân cũng chưa phát hiện hết. Cũng như các loại tiếng rao hàng ban đêm thì Thạch Lam đã ghi chép vậy mà ở Tiếng rao đêm của Tô Hoài vẫn có nhiều ý tứ vậy đó, với vài nét kí họa, Tô Hoài đã vẽ được cái thần thái của một thành phố nghìn tuổi đang đô thị hóa gấp gáp trở thành nửa Tây nửa ta, nửa cũ nửa mới, nửa sang nửa quê…Có một Hà Nội nhố nhăng như thế thì cũng có một Hà Nội lầm lầm than ấy càng rõ nét hơn ở các làng quê ven nội. Thợ cửi, thợ giấy làm quần quật ngày đêm mà vẫn đói khổ, rồi nạn Tây đoan sục bắt rượu lậu và những người dân lành đói khổ phải nhận đi “tù rượu thay” để vợ con ở nhà có người chu cấp. Sự bần cùng ấy hằn sâu nhât strong chuyện Chết đói. Nạn đói năm 1945 đã làm vợi đi của làng Nghĩa Đô bao người. Ngay cả tác giả và bạn văn Nam Cao nếu không có một người quen ý tứ trả công dạy học lũ con ông ta bằng gạo thì “không biết chúng tôi có mắt xanh lè giống thằng Vinh hay dì Tư không, hay còn thế nào nữa…”Trong sách còn một mảng kể về phong tục. Nhiều cái nay không còn. Như các đám múa sư tử thi đêm Rằm Trung Thu ở những phố Hàng Ngang, Hàng Đường và đánh nhau chí tử, quang cảnh những ngày áp tết dường như cả nước kéo về Hà Nội… Ở ven đô thì hội hè đình đám, khao vọng, đám ma… Các bài Làm ma kho, Thẻ thuế thân, Khổng Văn Cu vừa bi vừa hài. Có một bài tuyệt hay, đó là bài mô tả đám rước Thánh Tăng. Đích thị là một lễ hội phồn thực có từ đời nảo đời nao mà tới tận thời Pháp thuộc vẫn còn tồn tại, lại ở ngay sát nách kinh kì. Bấy nhiêu hình ảnh không bao giờ xuất hiện nữa nhưng tôi cứ nghĩ rằng ngày nay, ít ra thì những nhà làm phim lịch sử, viết truyện lịch sử, dựng kịch lịch sử rất cần đến. CHUYỆN CŨ HÀ NỘI chính là một tập kí sự về lịch sử… Nạn đói ở Thái Bình Bóp cổ, moi thức ăn từ miệng người khác Chúng ta có thể tự hào bởi những trang sử hào hùng và kiêu hãnh, nhưng chúng ta cũng không thể quên những đau thương, mất mát của dân tộc mình. Kỳ 1 Những câu chuyện bi thươngTrong Viện Sử học Việt Nam có lưu bức thư của một tác giả nước ngoài là Vespy viết tháng 4/1945 tả về thảm cảnh nạn đói 1945 “Họ đi thành rặng dài bất tuyệt, người nào người ấy rúm người dưới sự nghèo khổ, toàn thân lõa lồ, gầy guộc giơ xương, ngay cả những thiếu nữ đến tuổi dậy thì đáng lẽ hết sức e thẹn cũng thế. Thỉnh thoảng họ dừng lại vuốt mắt cho một người đã ngã và không bao giờ dậy được nữa, hay để lột một miếng giẻ rách không biết gọi là gì cho đúng để che thân người đó. Nhìn những hình người xấu hơn con vật xấu nhất, nhìn thấy những xác chết nằm co quắp cạnh đường chỉ có vài nhành rơm vừa làm quần áo vừa làm vải liệm, người ta thật lấy làm xấu hổ cho cái kiếp con người”. Theo thống kê của Viện Sử học, số người chết trong nạn đói Ất Dậu lên tới 2 triệu người. Nạn đói xảy ra trên diện rộng, từ Quảng Trị trở ra Bắc Kỳ. Mở lại những trang hồ sơ về sự kiện bi thảm ấy, cũng không còn nhiều câu chuyện cụ thể được ghi chép lại. Nạn đói năm Ất Dậu – 1945. Ảnh Võ An Ninh Nạn đói xảy ra trên địa phận tỉnh Thái Bình là khủng khiếp nhất. Cảnh chết đói diễn ra khắp nơi trong tỉnh, nhất là các huyện phía nam. Hàng ngày, từng đoàn người đói rét dắt díu nhau đi lang thang ăn xin rồi chết ở đầu đường xó chợ. Nhiều gia đình chết không còn một ai. Nhiều làng chết đói từ 50 đến 80% dân số. Chỉ trong vòng 5 tháng, số người chết đói trong toàn tỉnh lên đến 28 vạn người, chiếm khoảng 1/4 dân số toàn tỉnh. Chúng ta có thể tự hào bởi những trang sử hào hùng và kiêu hãnh, nhưng chúng ta cũng không thể quên đi những đau thương, mất mát của dân tộc mình. Hiện tại, cũng không mấy người còn hình dung ra những thảm cảnh kinh hoàng 70 năm trước. Mùa thu năm 2014, tôi lên đường tìm lại những dấu tích cũ, những nhân chứng sống của nỗi đau lịch sử đó. Thái Bình giờ thay da đổi thịt, làng quê khang trang như phố thị, người xe nườm nượp, đầy tiếng trẻ nô cười. Có ai ngờ rằng, nơi đây từng là địa ngục trần gian. Khi tôi đặt vấn đề tìm hiểu về những số liệu của thời kỳ đau thương ấy, nhà sử học Đặng Đình Hùng, một nhà nghiên cứu lịch sử tỉnh Thái Bình cho biết, mặc dù sinh sau nạn đói gần 10 năm, nhưng ông vẫn được nghe, được kể rất nhiều về nạn đói. Những câu chuyện, những con số của nỗi đau năm 1945 vẫn luôn ám ảnh ông. Khi vụ mùa gần như mất trắng, cộng thêm thiên tai, vỡ đê, dân Thái Bình rơi vào nạn đói kéo dài từ tháng 8 năm Giáp Thân 1944 sang đến những tháng đầu năm Ất Dậu 1945. Trong khi đáng lẽ phải cứu đói khẩn cấp thì chính quyền phát xít Nhật lại thực hiện chính sách thu mua thóc tạ thời chiến. Họ tỏa về các làng xã thu vét thóc gạo. Vào cuối 1944, khi chiến tranh thế giới thứ 2 đi vào giai đoạn quyết liệt, Nhật – Pháp chuẩn bị chiến tranh, bọn đế quốc càng ráo riết tích trữ các mặt hàng chiến lược, đặc biệt là lương thực thực phẩm. Đến đầu năm 1945, nạn đói bùng nổ khi dân chúng không còn bất cứ cái gì để ăn, thóc gạo cũng hết, ăn sạch cả củ sắn, củ mài, nhặt cỏ rau má ăn, củ chuối cũng đào hết. Những bức ảnh ghi lại thời kỳ đau thương trong lịch sử dân tộc Ảnh Võ An Ninh Thời kỳ đó, không ai còn nghĩ đến ai cả, họ hàng, bố con, anh em bỏ nhau hết, con đến nhà bố thì bố đóng cửa không cho vào, bố đến nhà con thì con không nhận, vì quá đói, sợ đến lại không còn cái gì để ăn. Người ta bắt đầu đổ ra ngoài, tìm mọi cách để giành giật lấy mọi thứ có thể cho vào mồm. Có lẽ không lời nào có thể tả hết được thảm cảnh đó. Lúc cao điểm, ở các con đường, người chết lẫn người sống nằm la liệt, hoặc không thì bò lê bò lết, đói quá không ai còn sức đứng dậy nổi. Rất nhiều trẻ con nằm chết, bởi bố mẹ sinh ra không nuôi nổi đành bế ra đường bỏ. Một cụ già ở xã Tây Lương Tiền Hải, Thái Bình kể rằng, ông nhớ mãi hình ảnh 2 mẹ con nằm ngay bên vệ đường trong lần ông đi mua rượu cho địa chủ, mẹ chết trước, con ánh mắt đờ đẫn cứ nằm trên bụng mẹ bú vào cặp vú, là mẩu da nhỏ dính trên bộ ngực toàn xương xẩu. Cây số 3 trên đường từ Thái Bình đi Hà Nội, nay là một khu vực sầm uất, hàng quán san sát, chỉ có một cột mốc cũ kỹ bên vệ đường. Thời nạn đói xảy ra, ở đó đã từng có hàng vạn người đói rách quằn quại tụ tập ở đây với hy vọng có thể tìm được một con đường sống. Cây số 3 trong nạn đói Ất Dậu 1945 Ảnh Võ An Ninh Câu chuyện được nhà sử học Đặng Đình Hùng ghi chép Có người đàn ông đi làm thuê, bốc vác, ông có mang theo mấy củ khoai cùng với nắm cơm. Gọi là cơm nhưng thực ra là cám trộn với một ít gạo, một ít rau, trấu… làm lương thực ăn dọc đường. Lúc về qua địa phận đó, xung quanh là những con người nằm im bất động, sống hay chết cũng không biết. Mệt quá nên ông đành ngồi lại nghỉ ngơi, vừa mới móc tý lương thực ít ỏi ra thì bất thần những thây ma ngóc đầu dậy, rồi xúm vào vồ lấy nắm cơm. Có một người giật được, cho ngay vào mồm, nhưng chưa kịp nuốt thì đã bị những kẻ khác dùng tay bóp nghẹt cổ họng, thè cả lưỡi và rơi miếng cơm ra. Cả nhóm lại nhảy vào xâu xé cái miếng cơm ít ỏi đó… Nhà sử học Đặng Đình Hùng bên cột mốc số 3 hiện tại, nay là một khu vực sầm uất Bảo tàng tỉnh Thái Bình trông thật khang trang, bề thế. Cạnh đó là những công trình, nhà cửa san sát, những dấu tích cũ cũng đã biến mất. Nhưng cách đây gần 70 năm, ngay cạnh đó là trại tế bần do những thân hào, nghĩa sỹ yêu nước đứng ra thành lập. Họ vận động những nhà giàu có trong vùng quyên góp để cứu đói. Nơi đây, các nghĩa sĩ đã nấu cháo phát chẩn. Dù lượng cháo quá ít ỏi nhưng đó là niềm hy vọng sống nhỏ nhoi của hàng vạn con người đang lay lắt từng ngày. Địa danh từng là trại tế bần Mỗi người được một bát nhỏ, toàn nước cháo loãng, có tý gọi là chất gạo. Nhưng ai nhận được cháo phát chẩn mà ăn ngay tại chỗ thì còn được vào người, được an toàn, chứ chỉ cần bê tô cháo quay ra ngoài, ra khỏi hàng là y như rằng bị cướp. Thậm chí, lúc giằng co bát cháo rơi xuống, có người ngay tức khắc nằm ra để hứng, không hứng được, họ cào cả lớp đất vừa ngấm tý nước gạo cho ngay vào mồm. Có người rách lưỡi, rách họng vì nuốt vội cả mảnh bát vỡ. Vể sau, người ta gọi đùa trại tế bần đó là Nhà máy cháo, ký ức về một thời đau thương của dân tộc. Ngày đăng 14/02/2016, 0049 Nạn đói năm 1945 TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP TPHCM KHOA TÀI CHÍNH – NGÂN HÀNG Bài thuyết trình tiểu luận MÔN HỌC ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM ĐỀ TÀI NẠN ĐÓI NĂM 1945 LỚP DHTN9CTT TÊN NHÓM NHÓM GVHD NGUYỄN MINH TIẾN LỜI CAM ĐOAN Nhóm chúng em xin cam đoan tiểu luận công trình nghiên cứu riêng chúng em, không chép Nhóm PHẦN MỞ ĐẦU Lý chọn đề tài Chúng ta tự hào lịch sử dân tộc hào hùng kiêu hãnh Nhưng quên đau thương, mát dân tộc Những người sống hạnh phúc hôm không hẳn nhớ tới nỗi khổ nhục kinh hoàng lịch sử dân tộc Việt với triệu đồng bào chết đày đọa đến tận đói Năm đó, 1945, năm Ất Dậu, cách tròn vòng quay 69 năm vũ trụ Ngoại trừ “nghĩa trang người chết đói” nằm khuất ngõ Hà Nội, ngoại trừ vài báo “điểm tin” vào dịp kỷ niệm, ngoại trừ ảnh cụ Võ An Ninh, số phận bi thương hàng triệu người bị bỏ quên Hiện nay, Đất Nước độc lập,tự hạnh phúc,các bạn trẻ sống cơm no áo ấm mà vô tình’ quên lãng nỗi đau không bù đắp Bởi vậy, nhóm xin làm đề tài tiểu nạn đói năm 1945 Bài học bi thương lịch sử cần phải người ghi nhớ Người Nhật sau năm 1945 dạy nhìn vào thất bại Thế chiến thứ để vươn lên Hi vọng qua học lịch sử nạn đói năm 1945, rút điều có ích Mục đích nghiên cứu Chúng em chọn “Nạn đói năm 1945” để hiểu thêm nguyên nhân diễn biến hậu mà nạn đói mang lại Qua giúp giới trẻ thanh-thiếu niên hiểu có lối sống lành mạnh,trân trọng có Nhưng quan trọng hướng tưởng nhớ người chịu nỗi đau dân tộc’ Mong qua bạn có nhìn sâu săc đắn vấn đề hay có chút đọng lại đáng để suy ngẫm Nội dung nghiên cứu Tiểu luận gồm chương, chương trình bày ý cụ thể sau Chương Vài nét khái quát nạn đói năm 1945 Chương Nguyên nhân gây Nạn đói năm 1945 Nguyên nhân tự nhiên gián tiếp Nguyên nhân trực tiếp Nguyên nhân từ phía Pháp Nguyên nhân từ Nhật Hoa Kỳ Chương Thực trạng Nạn đói 1945 Chương Hậu Nạn đói năm 1945 Kết nghiên cứu Qua trình nghiên cứu tìm tòi ta thấy Nạn đói năm 1945 nỗi đau lớn dân tộc mà không quên nhắc đến mang theo nỗi sợ hãi không cho đồng bào nước mà bạn bè Thế Giới Kết luận – Đề xuất Nạn đói năm 1945 để lại cho dân tộc nỗi ám ảnh kinh hoàng’, nỗi đau da diết’ Là Công dân Việt Nam không phép quên thảm họa’ Chúng ta cần phải có ngày kỉ niệm mát để tưởng nhớ những người thương đau để sau cháu thấu hiểu dân tộc,ông bà,cha mẹ trải qua NỘI DUNG Chương 1 VÀI NÉT KHÁT QUÁT VỀ NẠN ĐÓI NĂM 1945 Nạn đói năm Ất Dậu nạn đói xảy miền Bắc Việt Nam khoảng từ tháng 10 năm 1944 đến tháng năm 1945 làm khoảng từ đến triệu người dân chết đói Thi sĩ Bàng Bá Lân ghi lại cảnh chết đói kinh hoàng qua thơ “ĐÓI”như đây “Năm Ất Dậu tháng ba nhớ Giống Lạc Hồng cực trải đau thương! Những thây ma thất thểu đầy đường, Rồi ngã gục không đứng lên vì…đói!” Suốt chiều dài lịch sử, chưa dân tộc Việt Nam phải chịu tai họa thảm khốc có tính cách xã hội nhân văn thế, xét số người chết đói địa bàn qui mô vùng bị tai họa “Khắp đường xá xác đói rên nằm Trong nắng lửa, bụi lầm co quắp, Giữa đống giẻ đôi hố mắt Đọng chút hồn tắt thây ma; Những cánh tay gầy quờ quạng khua khoa Như muốn bắt vô ảnh Dưới mớ tóc rối bù kết bánh, Một da đen xạm bọc xương đầu Răng nhe đầu lâu, Má hóp lại, hằn sâu gớm ghiếc Già trẻ gái trai không phân biệt, Họ giống thây ma, Như xương dính chút da, Chưa chết bốc xa mùi tử khí!” Chương 2 NGUYÊN NHÂN GÂY RA NẠN ĐÓI NĂM 1945 Nguyên nhân tự nhiên gián tiếp - Nguyên nhân tự nhiên, thời tiết yếu tố ảnh hưởng nghiêm trọng đến sản xuất lương thực miền Bắc Thiên tai, lũ lụt, sâu bệnh gây mùa miền Bắc Mùa màng miền Bắc bị hạn hán côn trùng phá hoại, khiến sản lượng vụ đông-xuân từ năm 1944 giảm sụt khoảng 20% so với thu hoạch năm trước Sau lũ lụt xảy làm hư hại vụ mùa nên nạn đói bắt đầu lan dần Mùa đông năm 1944 - 1945 khắc nghiệt thay lại mùa đông giá rét khiến hoa màu phụ mất, tạo yếu tố tai ác chồng chất bối cảnh chiến tranh giới - Bệnh dịch tả lây lan nhanh rộng khắp mùa lũ Có ông nhà giàu làng sai người giúp việc nhà, lấy gạo nấu cháo đến xin ăn múc cho chén cháo đỡ đói Nhưng số người xin ăn đông, tối khuya người đến đập cửa xin ăn Khi nghe tin có nơi người ăn xin khỏe mạnh vào ăn cướp kho lẫm nhà giàu nên từ trở đi, ông phú hộ phải cửa đóng then cài “Họ người quê non nước Việt, Sống cần lao bên ruộng lúa, đồng khoai Lúa xanh rờn nhờ họ đổ mồ hôi, Nước Việt sống mồ hôi họ đổ.” Tại Hà Nội, nhiều xác người chết đói nằm ngổn ngang đường phố Mỗi sáng sớm người ta phải đem xe bò chở xác chết đem chôn vội Có người ăn xin, đói lả phố, đêm đến, nằm dựa lối cửa vào hay bờ tường phố Khủng khiếp thay! Nhiều người sáng sớm vừa mở cửa xác chết đổ kềnh sang bên, có ngã lăn vào phía bên nhà, khiến người nhà kinh hồn khiếp vía! “Thường sớm sớm cửa nhà ngỏ, Rụt rè xem có xác chết chăng! Từng xe bò bánh rít khô khan Mỗi sáng dạo khắp nẻo đường nhặt xác Xác chồng chất lù lù đống rác, Đó thò khô đét bàn chân Hai cánh tay gầy tím ngắt teo răn Giơ chới với níu không khí, Như cầu cứu, vẫy người ý… Có thở tàn thoi thóp chưa thôi, Có tiếng cựa mình, tiếng nấc…Những tròng Nhìn đẫm lệ người chôn người chửa chết! Bốn ngoại ô mở dãy huyệt Được lấp đầy xác chết…thường xuyên Ruồi mây bay rợp miền… Chết! Chết! Chết! Hai triệu người chết!” Chương 4 HẬU QUẢ CỦA NẠN ĐÓI NĂM 1945 * Lịch sử Đảng tỉnh Thái Bình ghi năm 1945 tỉnh có người chết đói, chiếm 25% tổng dân số Nhiều địa phương chết tới 50% dân số xã Tây Lương 67%; Sơn Thọ, Thụy Anh Thái Thụy 79%; xã Thanh Nê Kiến Xương có người chết gần người; xã Tây Ninh Tiền Hải có 171 gia đình chết không ai… * Cuốn Lịch sử tỉnh Hà Nam Ninh xuất năm 1988 ghi Phủ Nghĩa Hưng, Nam Định ngày chết 400 người Huyện Kim Sơn Ninh Bình vụ đói có người chết Trong hộ có hộ chết không người Nam Định chết người; Ninh Bình người, Hà Nam người * Theo giáo sư sử học Văn Tạo - nguyên viện trưởng Viện Sử học nạn đói năm 1945 diễn 32 tỉnh thành cũ từ Quảng Trị trở Từ năm 1990-1995 Viện Sử học với hàng trăm cán nhân viên, có giúp đỡ hàng trăm cộng tác viên tỉnh, thành trợ giúp nhiều giáo sư, tiến sĩ Nhật Bản tiến hành ba đợt điều tra nghiêm túc, tỉ mỉ khoa học 23 điểm đại diện cho tính chất dân cư khác nạn đói Kết trung bình cộng cho thấy tỉ lệ người chết đói địa phương 15% Dân số VN năm 1945 32 tỉnh thành lúc 13 triệu người Con số triệu người chết lần khẳng định Kết Luận Đã đọc nhiều tài liệu nói nạn đói năm 1945, nghe có triệu người chết nạn đói năm đó, hình dung cách đầy đủ chi tiết nạn đói lại khủng khiếp đến Vậy mà lại thật Một thật mà đến người dửng dưng thấy xót xa Tôi thấy trước mắt cảnh người nằm chết co rúm lại mà miệng vương cọng rơm Tôi không khỏi rùng đọc tới chi tiết người ta ăn đất, ăn thứ Ôi, người ta có nắm gạo phải giấu kín đi, phải ngày đêm canh chừng sợ cướp Người ta chạy theo xe ngựa, xe trâu để lượm phân, với mong mỏi có hạt đậu, hạt ngô sót Hễ đường thấy xác chết nằm la liệt, đến không chiếu để chôn Còn cảnh tượng thương tâm hơn, xót xa thế! Mà câu chuyện đâu phải kỷ xa xôi, xảy cách 69 năm Vậy mà sau 69 năm dường quên hẳn Quên có thời kỳ đồng bào đói mà chết Có biết sâu sắc ông cha ta trải qua thấy quí có hôm Một bữa cơm no, bình thường quá, mà mơ ước xa vời người cảnh đói Mới thấy tội ác chiến tranh đáng sợ quá! Đâu thể tính bom đạn, thương vong Nạn đói năm ấy, hậu chất độc da cam niềm đau không bù đắp Con số 10% định xác, thảm họa nạn đói 1945 dùng so sánh với tội ác diệt chủng Người Việt hệ trẻ Việt cần nhìn lại vấn đề cách trân trọng mãi lãng quên nỗi đau dân tộc PHỤ LỤC Phụ lục 1 Đói phải ăn thịt chuột Phụ lục 2 Cảnh thu gom xác người chết Phụ lục 4 người chết gầy trơ xương nằm la liệt Phụ lục 3 Những người chết đói trại Giáp Bát cải táng nghĩa trang Hợp Thiện Hà Nội Phụ lục 5 Núi xương khổng lồ đồng bào ta chết Phụ lục 6 xe kéo xác người chôn tập thể Phụ lục 7 Một góc Khu tưởng niệm triệu đồng bào chết oanh tạc nạn đói năm 1944 – 1945 Phụ lục 8 BIA TƯỞNG NIỆM NẠN NHÂN CHẾT ĐÓI TẠI ĐƯỜNG KIM NGƯU HÀ NỘI Phụ lục 9 CỤ NGÔ TỬ HẠ, ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI KHÓA I CAO TUỔI NHẤT, ĐANG KÉO CHIẾC XE QUYÊN GÓP VÀ PHÂN PHỐI GẠO TRONG NGÀY CỨU ĐÓI Phụ lục 10 LỄ PHÁT ĐỘNG NGÀY CỨU ĐÓI TẠI NHÀ HÁT LỚN HÀ NỘI Phụ lục 11 Người người từ tỉnh lân cận Hà Nội nối đuôi tìm trợ giúp Tại chợ Hàng Da Hà Nội, họ chờ phân phối đồ cứu trợ, nhiều người chưa kịp nhận chết Phụ lục 12 NHỮNG NGƯỜI ĐÓI CƯỚP LẠI THÓC GẠO DO NHẬT CHIẾM, BỊ QUÂN ĐỘI NHẬT HÀNH HUNG 1945 Phụ lục 13 CỐ NGHỆ SĨ - NHIẾP ẢNH GIA VÕ AN NINH TÀI LIỆU THAM KHẢO Bài thơ Đói ’,tập thơ Đói’, thi sĩ Bàng Bá Lân, tháng năm 1957 Nạn đói năm Ất Dậu, 1944-1945,31/12/2013, Bức ảnh nạn đói năm 1945 cố nghệ sĩ Võ An Ninh, Vũ Vũ sưu tầm-nguồn nghệ sĩ Võ An Ninh,11/06/2012, Nạn đói năm 1945 kỳ 1 Thảm cảnh quê nhà, Quang Thiện,01/03/2005, Nạn đói năm 1945 kỳ 2 Dưới đáy Địa Ngục, Quang Thiện, 02/03/2005, MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN PHẦN MỞ ĐẦU 1 Lý chọn đề tài Mục đích nghiên cứu Nội dung nghiên cứu Kết nghiên cứu Kết luận – Đề xuất NỘI DUNG Chương Vài nét khái quát nạn đói năm 1945 Chương Nguyên nhân gây Nạn đói năm 1945 Nguyên nhân tự nhiên gián tiếp Nguyên nhân trực tiếp……………………………………………… Nguyên nhân từ phía Pháp Nguyên nhân từ Nhật Hoa Kỳ Chương Thực trạng Nạn đói 1945………………………………… Chương Hậu Nạn đói năm 1945 …………………………… 12 KẾT LUẬN 13 PHỤ LỤC 14 TÀI LIỆU THAM KHẢO 21 MỤC LỤC 23 [...]... NINH TÀI LIỆU THAM KHẢO 1 Bài thơ Đói ’,tập thơ Đói , thi sĩ Bàng Bá Lân, tháng 5 năm 1957 2 Nạn đói năm Ất Dậu, 1944 -1945, 31/12/2013, 3 Bức ảnh về nạn đói năm 1945 của cố nghệ sĩ Võ An Ninh, Vũ Vũ sưu tầm-nguồn nghệ sĩ Võ An Ninh,11/06/2012, 4 Nạn đói năm 1945 kỳ 1 Thảm cảnh quê nhà, Quang Thiện,01/03/2005, 5 Nạn đói năm 1945 kỳ 2 Dưới đáy của Địa Ngục,... 3 Chương 1 Vài nét khái quát về nạn đói năm 1945 3 Chương 2 Nguyên nhân gây ra Nạn đói năm 1945 Nguyên nhân tự nhiên gián tiếp Nguyên nhân trực tiếp……………………………………………… 5 Nguyên nhân từ phía Pháp 5 Nguyên nhân từ Nhật và Hoa Kỳ 6 Chương 3 Thực trạng của Nạn đói 1945 ……………………………… Chương 4 Hậu quả của Nạn đói năm 1945 …………………………… 8 12 KẾT LUẬN ... cho các tính chất dân cư khác nhau về nạn đói này Kết quả trung bình cộng cho thấy tỉ lệ người chết đói tại các địa phương là 15% Dân số VN năm 1945 tại 32 tỉnh thành lúc đó là trên 13 triệu người Con số 2 triệu người chết một lần nữa được khẳng định Kết Luận Đã từng đọc nhiều tài liệu nói về nạn đói năm 1945, đã từng nghe rằng có hơn 2 triệu người chết vì nạn đói năm đó, nhưng tôi không thể nào hình... điện của Nhật tăng cao Chúng đã lấy ngô, vừng, lạc và cả lúa gạo để thay thế những nhiên liệu này phục vụ mưu đồ phát xít, đẩy người dân vào thảm họa chết đói Chương 3 THỰC TRẠNG NẠN ĐÓI NĂM 1945 Đói từ Bắc Giang đói về Hà Nội, Đói ở Thái Bình đói tới Gia Lâm Rải bên đường những nấm mộ âm thầm Được đánh dấu bằng ruồi xanh cỏ tốt Có nấm mộ quá nông trơ hài cốt, Mùi hôi tanh nồng nực khắp không gian... khăn thêm khi Nhật đảo chánh Pháp vào tháng 3 năm 1945 nên bộ máy chính quyền của Pháp nhanh chóng tan rã Việc tiếp vận và phân phối sau đó càng bị tê liệt Nạn thiếu ăn biến thành nạn đói, đã manh nha từ đầu năm 1944 nay càng thêm trầm trọng Đế quốc Việt Nam do Trần Trọng Kim làm thủ tướng ra chấp chính từ tháng 4 năm 1945 đã cố gắng huy động việc cứu đói cho dân ngoài Bắc nhưng những yếu tố chính... QUẢ CỦA NẠN ĐÓI NĂM 1945 * Lịch sử Đảng bộ tỉnh Thái Bình ghi năm 1945 cả tỉnh có người chết đói, chiếm 25% tổng dân số Nhiều địa phương chết tới trên 50% dân số như xã Tây Lương 67%; Sơn Thọ, Thụy Anh Thái Thụy 79%; xã Thanh Nê Kiến Xương có người thì chết gần người; xã Tây Ninh Tiền Hải có 171 gia đình chết không còn một ai… * Cuốn Lịch sử tỉnh Hà Nam Ninh xuất bản năm 1988... đạn, thương vong Nạn đói năm ấy, rồi hậu quả của chất độc da cam sẽ mãi là niềm đau không gì có thể bù đắp được Con số 10% là một phỏng định và nếu chính xác, thảm họa nạn đói 1945 có thể dùng so sánh với tội ác diệt chủng Người Việt và nhất là thế hệ trẻ Việt cần nhìn lại vấn đề này một cách trân trọng hơn và mãi mãi chúng ta không thể lãng quên nỗi đau của dân tộc PHỤ LỤC Phụ lục 1 Đói phải ăn cả... gầy trơ xương nằm la liệt Phụ lục 3 Những người chết đói ở trại Giáp Bát được cải táng về nghĩa trang Hợp Thiện Hà Nội Phụ lục 5 Núi xương khổng lồ đồng bào ta chết Phụ lục 6 xe kéo xác người đi chôn tập thể Phụ lục 7 Một góc Khu tưởng niệm 2 triệu đồng bào chết vì oanh tạc và nạn đói năm 1944 – 1945 Phụ lục 8 BIA TƯỞNG NIỆM NẠN NHÂN CHẾT ĐÓI TẠI ĐƯỜNG KIM NGƯU HÀ NỘI Phụ lục 9 CỤ NGÔ TỬ... mỗi ngày chết 400 người Huyện Kim Sơn Ninh Bình cả vụ đói có người chết Trong hộ thì có hộ chết không còn người nào Nam Định chết người; Ninh Bình người, Hà Nam người * Theo giáo sư sử học Văn Tạo - nguyên viện trưởng Viện Sử học nạn đói năm 1945 đã diễn ra ở 32 tỉnh thành cũ từ Quảng Trị trở ra Từ năm 1990-1995 Viện Sử học với hàng trăm cán bộ nhân viên,... ghê gớm của nạn đói - Đa phần các kho thóc có khả năng cứu đói trực tiếp tại miền Bắc khi đó đều nằm trong tay quân đội Nhật Người Nhật và chính quyền đương thời vì mục đích chiến tranh đã thờ ơ trước sự chết đói hàng loạt của dân bản địa Các kho lương thực được tăng cường bảo vệ, hoạt động trưng thu và vận chuyển lương thực được bảo vệ tối đa Các kho thóc trở thành tâm điểm nơi người đói kéo về nhưng ... NÉT KHÁT QUÁT VỀ NẠN ĐÓI NĂM 1945 Nạn đói năm Ất Dậu nạn đói xảy miền Bắc Việt Nam khoảng từ tháng 10 năm 1944 đến tháng năm 1945 làm khoảng từ đến triệu người dân chết đói Thi sĩ Bàng... tháng năm 1957 Nạn đói năm Ất Dậu, 1944 -1945, 31/12/2013, Bức ảnh nạn đói năm 1945 cố nghệ sĩ Võ An Ninh, Vũ Vũ sưu tầm-nguồn nghệ sĩ Võ An Ninh,11/06/2012, Nạn đói năm. .. nhân từ Nhật Hoa Kỳ Chương Thực trạng Nạn đói 1945 Chương Hậu Nạn đói năm 1945 Kết nghiên cứu Qua trình nghiên cứu tìm tòi ta thấy Nạn đói năm 1945 nỗi đau lớn dân tộc mà không quên nhắc - Xem thêm -Xem thêm Nạn đói năm 1945, Nạn đói năm 1945,

thơ về nạn đói 1945